Bia số 35: Năm Dương Hòa thứ 6 (1640)

VĂN BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA CANH THÌN NIÊN HIỆU DƯƠNG HÒA NĂM THỨ 6 (1640)

陽 和 六 年 庚 辰 科 進 士 題 名 記 二 十 二

陽和 紀 元 歲 在 庚 辰 當 國 家 盛 治 之 時 正 賢 士 觀 光 之 日 欽 惟 皇 上 陛 下 聖 敬 日 躋 賢 良 詔 舉 寔 賴 大 元 帥 統 國 政 太 上 師 父 功 高仁 聖 清 王 造 就 學 力 整 飭 國 綱 日 昭 至 治 雲 集 英 才 迺 於 是 年 之 春 時 當 大 比 四 方 文 學 之 士 歌 鹿 鳴 而 來 角 藝 春 圍 者 六 千 餘 人 有 司 閱 其 入 彀 者 二 十 二 名 以 其 名 聞 翌 日 殿 試 皇 上 臨 軒 進 而 親 策 命 題 調 少 保 蘭 郡 公 臣 黃 義肥 知 貢 舉 吏 部 左 侍 郎 壽 海 侯 臣 陳 有 禮 監 試 禮 部 右 侍 郎 錦 祿 子 臣 阮 評 御 史 臺 僉 都 御 史 福 川 男 臣 阮 壽 春 分 董 其 事 及 奉 讀 進 卷 上 陳 睿 覽曲 垂 鑒 別 賜 費 文 述 等 二 名 進 士 出 身 黃 榮 等 二 十 名 同 進 士 出 身 是 日 禮 部 捧 黃 榜 掛 張 於 大 學 門 天 下 士 庶 聚 首 榮 觀 以 為 快 賭 文 運 泰 亨 真 儒 輩 出 尤 太 平 之 盛 事 也 恩 榮 次 第 貝 如 彝典題 名 刻 石 未 舉 舊 章 乃 命 冬 官 砻 石 刻 之 堅 玫 命 詞 臣 分 撰 記 文 臣 等 祇 奉 明 詔 謹 拜 手 稽 首 而 進 言 曰天 地 生 育 萬 物 必 資 四 时 以 成 功 帝 王 寵 綏 四 方 必 求 群 賢 以 輔 治 是 故 野 無 遺 賢 虞 室 致 雍 熙 之 治 王 多 吉 士 周 家 臻 康 乂 之 休 歷 觀 自 古 願 治 之 君 未 嘗 不 以 用 賢 取 士 為 先務 也 洪 惟 聖 朝 太 祖 高 皇 帝 天 錫 勇 智 業 茂經 綸 設 學 監 育 材 以 策 試 取 士 而 人 才 之 進 自 此 胚胎 太 宗 文 皇 帝 至 仁 守 成 大 孝 善 繼 於壬 戌 開 科 求 賢 人 自 輔 而 人 才 之 伸 從 玆 孕育 仁 宗 宣 皇 帝 六 館 增 立 以 養 天 下 之 才 三 科 繼 設 以 來 翹 楚 之 士 人 才 以 之 榮 進 聖 宗 淳 皇 帝 道 德 乾 坤 光 華 日月 進 士 有 錄 以 為 萬 世 法 程 題 名 有 碑 以 為 萬 代 龟 鑑 人 才 以 之 鼎 盛 自 是 厥 後 聖 子 神 孫 相 傳 相 繼 成 規 舊 典是 踵 是 遵 雖 中 葉 之 艱 屯 偶 值 然 先 王 之 正 統 尚 存 莊 宗 裕 皇 帝 中 宗 武 皇 帝 英 宗 峻 皇 帝 肇 夏 少 之 謀立 高 祖 之 業 登 用 賢 士 共 圖 紀 綱 寔 賴世 祖 明 康 太 王 翊 扶 日 月 再 造 國 家 收 豪 傑 備 僚 屬 設 制 科 拾 人 材 而 異 人 傑 士 濟 濟 雲 趨 敬 宗 惠 皇 帝 應 天 人 之 會 綏 海 宇 之民 收 拾 賢 才 以 開 至 治 允 資 成 祖 晢 王 恢 復 輿 圖 計 安 社 稷 為 後 世 立 宏 規 設 科 場 求 俊 士 而 碩 輔 名 公 彬 彬 彙 進 至 今 益 盛 欽 惟 皇 上 陛 下 光 膺 景 命 嗣 守 丕 基夙 寤 晨 興 務 以 求 賢 寔 賴 大 元帥 統 國 政 太 上 師 父 功 高 仁 聖 清 王 粉 飭 太 平 恢 張 治 具 國 家 之 重 任 擔 當 天 下 之 賢 才 收 蓄 專 委 元 帥 掌 國 政 西 定 王 設 科 取 士 用 人 行 政 當 此 之 時 治功 已 成 思 保 其 所 以 成 制 度 未 備 深 求 其 所 以 備 特 念 夫 自 恢 復 以 來 制 科 進 士 諸 科 題 名 刻 石 經 始 未成 自 非 獎 表 激 勸 安 能 成 先 志 之 所 未 成 備 前 聖 之所 未 備 耶 所 以 堅 玫 有 刻 紀 實 有 文 留 寘 在 賢 關 用 勸 多 士 寵 任 極 其 隆 制 度 極 其 備 真 曠 古 而 再 見 也 歟 且 是科 以 將 相 之 才 為 明 時 之 用 內 外 均 任 歷 試 仕 途 迭更 眾 職 政 事 深 戒 紛更 議 論 務 在 寬 厚 其 勳 名 事 業 愈 久 而 益 彰 矣 倘 或 終 始 參 差 表 中 玉 石 外 剛 而 內 柔 先 貞 而 後 黷 後 來觀 斯 石 者 指 其 名 曰 某 也 正 直 君 子 某 也 邪 曲 小 人 公 論 昭 昭 名 節 凜 凜 可 不 慎 哉 然 則 斯 石 乃 名 教 之砥 柱 綱 常 之 根 基 目 之 者 有 所 準 的 有 所 規 戒 益 見 皇 王 億 萬 年 太 平 之 治 永 奠 於 泰 山 磐 石 矣 臣 謹 記

翊運 贊 治 功 臣 特 進 金 紫 榮 祿 大 夫 禮 部 尚 書 兼 翰 林 院 侍 講 參 掌 翰 林 院 事 拔 郡 公 上 柱 國 臣 楊 致 澤 奉 敕 潤 光 進 慎 祿 大 夫 翰 臨 院 校 理 榮江 男 臣 阮 文 澧 奉 敕 撰

中書 監 華 文 學 生 東 岸 縣 扶 軫 社 臣 阮 領 奉敕 書

皇越 盛 德 元 年 十 一 月 十 六 日 立

賜 第 二 甲 進 士 出 身 二 名

費 文 述 白 鶴 上 微 社

陳 玉 厚 嘉 林 縣 樂 道 社

賜 第 三 甲 同 進 士 出 身 二 十 名

黃 榮 真 定 縣 大 黃 社

楊 澔 嘉 林 縣 樂 道 社

張 光 前 瑞 原 縣 金 鑊 社

阮 性 文 江 縣 花 球 社

阮 公 造 嘉 定 縣 大 拜 社

阮 文 廣 丹 鳳 縣 山 桐社

黎 秉 忠 弘 化 縣 月 圓 社

鄭 良 弼 錦 江 縣 魯 舍 社

黎 仁 澈 農 貢 縣 古 堆 社

黎 兼 弘 化 縣 沛 梂 社

鄭 文 俊 瑞 源 縣 俊 傑 社

杜 文 總 慈 廉 縣 上 安 快 社

鄧 純 仁 錦 江 縣 錦 山 社

范 竇 青 沔 縣 釆石 社

阮 文 湍 石 河 縣 芷 洲 社

吳 仁 濬 安 豐 縣 望 月 社

陳 文 選 安 勇 縣 黃 麻 社

郭 同 德 東 岸 縣 浮 溪 社

武 榮 進 唐 豪 縣 扶 擁 社

陳 如 淵 唐 豪 縣 瑞 莊 社

Niên hiệu Dương Hòa vào năm Canh Thìn, gặp thời nước nhà thịnh trị, chính buổi trọng danh hiền.

Kính nay Hoàng thượng bệ hạ, thánh đức càng cao, xuống chiếu tiến cử người hiền. Thực nhờ Đại nguyên súy Thống quốc chính Sư phụ Thanh vương đào tạo thực học, chỉnh đốn kỉ cương, trị bình ngày sáng, anh tài như mây họp. Bèn vào mùa xuân năm ấy mở khoa thi Hội. Kẻ sĩ văn học bốn phương hát thơ Lộc minh mà đến, cùng nhau tranh đua tài nghệ ở chốn xuân vi đông đến trên 6.000 người. Quan hữu ty chọn được hạng trúng cách 22 người ghi tên tâu lên.

Hôm sau vào Điện thí, Hoàng thượng ngự ở hiên điện đích thân ra bài văn sách. Sai Đề điệu là Thiếu bảo Lan Quận công Hoàng Nghĩa Phì, Tri Cống cử là Lại bộ Tả Thị lang Thọ Hải hầu Trần Hữu Lễ, hai viên Giám thí là Lễ bộ Hữu Thị lang Cẩm Lộc tử Nguyễn Bình, Ngự sử đài Thiêm Đô Ngự sử Phúc Xuyên nam Nguyễn Thọ Quyến chia giữ các việc.

Đến khi dâng quyển lên đọc, Hoàng thượng xét duyệt và định thứ bậc. Cho bọn Phí Văn Thuật 2 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Hoàng Vinh 20 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân.

Ngày hôm đó, Bộ Lễ đem bảng vàng treo trước cửa nhà Thái học. Sĩ tử và dân chúng trong nước xúm đến xem bảng, đều vui mừng cho là văn vận hanh thông, chân Nho nối nhau xuất hiện, thật là sự kiện lớn lao trong đời thái bình. Việc ban ơn theo thứ bậc đều theo lệ cũ, duy việc khắc đá đề danh chưa kịp cử hành. Nay sai quan Bộ Công mài đá khắc tên, sai từ thần chia soạn bài ký. Bọn thần kính vâng mệnh sáng, kính cẩn cúi đầu rập đầu dâng lời rằng:

Trời đất sinh nuôi muôn vật, ắt phải để cho trải qua bốn mùa mới được thành công; các bậc đế vương vỗ về bốn phương, ắt phải cầu tìm hiền tài giúp trị. Cho nên không bỏ sót người hiền ở chốn đồng quê mà nhà Ngu mới có cuộc trị bình tươi sáng. Vua có nhiều bậc tài giỏi mà nhà Chu mới đạt đến sự tốt đẹp yên vui. Xét các thời đại xưa, chưa từng có vị vua nào muốn cho trong nước trị an mà không lấy việc dùng hiền tài, kén chọn kẻ sĩ làm công việc hàng đầu.

Kính nghĩ: Thánh triều Thái Tổ Cao hoàng đế trí dũng trời ban, kinh luân gồm đủ, đặt trường Giám để đào tạo nhân tài, ra bài hỏi sách lược để kén chọn kẻ sĩ, nhân tài thăng tiến bắt đầu từ đây.

Thái Tông Văn hoàng đế là bậc chí nhân, giữ gìn nghiệp lớn, lòng đại hiếu làm bậc giỏi kế thừa, bắt đầu năm Nhâm Tuất mở khoa thi cầu tìm người hiền giúp trị.

Nhân Tông Tuyên hoàng đế đặt thêm sáu quán để nuôi dưỡng nhân tài trong nước, đặt phép thi ba khoa để chọn hạng sĩ tử siêu quần, nhân tài nhờ thế vẻ vang tiến tới.

Thánh Tông Thuần hoàng đế đạo tỏa đất trời, sáng như nhật nguyệt. Tiến sĩ có sách đăng khoa làm phép tắc muôn đời, đề danh có bia treo gương muôn thuở, nhân tài nhờ thế mà thịnh vượng.

Từ đó về sau, con thần cháu thánh nối tiếp kế thừa, nếp cũ khuôn xưa ra sức noi giữ. Tuy giữa chừng gặp bước gian truân, nhưng chính thống của tiên vương vẫn còn. Trang Dụ hoàng đế, Trung Tông Vũ hoàng đế, Anh Tông Tuấn hoàng đế mưu lược dấy nghĩa như Thiếu Khang nhà Hạ, dựng nên cơ nghiệp như Hán Cao Hoàng, cất nhắc trọng dụng lựa dùng hiền sĩ cùng lo sắp đặt kỷ cương. Thực nhờ Thế Tổ Minh Khang thái vương giúp vầng nhật nguyệt, dựng lại quốc gia, chiêu nạp hào kiệt, xếp đặt đầy đủ chức quan, mở Chế khoa chọn lựa nhân tài mà danh sĩ tài giỏi như mây dồn kéo đến.

Kính Tông Huệ hoàng đế ứng vận trời thuận người theo, vỗ yên dân chúng trong nước, thu nạp hiền tài để mở nền thịnh trị. Thực nhờ Thành Tổ Triết vương khôi phục cơ đồ, giữ yên xã tắc, dựng quy mô to lớn cho đời sau, mở trường thi để tìm người giỏi mà các bậc danh nhân học rộng lớp lớp tiến lên, đến nay lại càng đông đảo.

Kính nghĩ: Hoàng thượng bệ hạ kế thừa mệnh sáng, nối giữ nghiệp lớn, sớm hôm lo lắng, chăm chú cầu hiền. Thực nhờ [Đại nguyên súy Thống quốc chính Sư phụ Thanh vương] điểm tô nền thái bình, khôi phục mở mang triều chính, đảm đương trách nhiệm quốc gia, thu nạp hiền tài thiên hạ, giao trọn quyền cho [Nguyên súy Chưởng quốc chính Tây Định vương] mở khoa thi kén kẻ sĩ, dùng người tài để thi hành chính sự. Đang lúc việc trị đã yên, cơ nghiệp giữ gìn vẹn toàn, chế độ có việc gì chưa đủ thì lo tìm cách làm cho đầy đủ. Đặc biệt nghĩ đến việc từ lúc khôi phục đến nay, các khoa thi Chế khoa, Tiến sĩ chưa kịp khắc đá đề danh, chưa tỏ được ý biểu dương khuyến khích, thế thì làm sao hoàn thành được việc người trước chưa hoàn thành, làm cho đầy đủ những việc tiên thánh chưa làm đủ? Vì thế [sai] viết bài ký khắc vào bia đá tốt, đặt ở cửa nhà Thái học để khuyến khích kẻ sĩ. Lòng yêu mến tin cậy thật rất lớn lao, chế độ hết sức đầy đủ, thật xưa nay mới lại được thấy!

Vả lại khoa này, những người có tài văn võ ra giúp thời thịnh sáng, cả trong triều ngoài phủ, trên bước đường làm quan trải thăng trầm thay đổi đều thận trọng giữ gìn chức vụ, luận bàn khoáng đạt đúng đắn, công danh sự nghiệp càng lâu càng rạng rỡ. Còn những kẻ trước sau sai khác, ngoài ngọc trong đá, ngoài cứng trong mềm, trước hay sau dở, thì về sau những người tới xem bia này sẽ chỉ vào tên mà nói: người này là bậc quân tử chính trực, người kia là kẻ tiểu nhân gian tà, công luận rõ ràng, danh tiết nghiêm buốt, há chẳng nên thận trọng sao!

Thế thì bia đá này là cột trụ của danh giáo, nền tảng của cương thường, hễ ai nhìn vào sẽ thấy rõ chuẩn đích, trong lòng nảy ý tự răn đe, càng có ích cho cuộc thái bình thịnh trị ức muôn năm của nước nhà vững như Thái Sơn vậy.

Thần kính cẩn dâng bài ký.

Dực vận Tán trị công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Thượng thư Bộ Lễ kiêm Hàn lâm viện Thị giảng Tham Chưởng Hàn lâm viện sự Bạt Quận công thượng trụ quốc Dương Trí Trạch vâng sắc nhuận.

Quang tiến Thận lộc đại phu Hàn lâm viện Hiệu lý Vinh Giang nam Nguyễn Văn Lễ1 vâng sắc soạn.

Trung thư giám Hoa văn học sinh Nguyễn Lĩnh người xã Phù Chẩn huyện Đông Ngàn vâng sắc viết chữ (chân kiêm chữ triện).

Bia dựng ngày 16 tháng 11 niên hiệu Thịnh Đức thứ 1 (1653) Hoàng Việt.

Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, 2 người:

PHÍ VĂN THUẬT 費文述2 người xã Thượng Trưng huyện Bạch Hạc.

TRẦN NGỌC HẬU 陳玉厚3 người xã Lạc Đạo huyện Gia Lâm.

Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 20 người:

HOÀNG VINH 黃榮4 người xã Đại Hoàng huyện Chân Định.

DƯƠNG HẠO 楊澔5 người xã Lạc Đạo huyện Gia Lâm.

TRƯƠNG QUANG TIỀN 張光前6 người xã Kim Hoạch huyện Thụy Nguyên.

NGUYỄN TÍNH 阮性7 người xã Hoa Cầu huyện Văn Giang.

NGUYỄN CÔNG TẠO 阮公造8 người xã Đại Bái huyện Gia Định.

NGUYỄN VĂN QUẢNG 阮文廣9 người xã Sơn Đồng huyện Đan Phượng.

LÊ BỈNH TRUNG 黎秉忠10 người xã Nguyệt Viên huyện Hoằng Hóa.

TRỊNH LƯƠNG BẬT 鄭良弼11 người xã Lỗ Xá huyện Cẩm Giàng.

LÊ NHÂN TRIỆT 黎仁澈12 người xã Cổ Đôi huyện Nông Cống.

LÊ KIÊM 黎兼13 người xã Bái Cầu huyện Hoằng Hóa.

TRỊNH VĂN TUẤN 鄭文俊14 người xã Tuấn Kiệt huyện Thụy Nguyên.

ĐỖ VĂN TỔNG 杜文總15 người xã Thượng Yên Quyết huyện Từ Liêm.

ĐẶNG THUẦN NHÂN 鄧純仁16 người xã Cẩm Sơn huyện Cẩm Giàng.

PHẠM ĐẬU 范竇17 người xã Thái Thạch huyện Thanh Miện.

NGUYỄN VĂN SUYỀN 阮文湍18 người xã Chỉ Châu huyện Thạch Hà.

NGÔ NHÂN TUẤN 吳仁濬19 người xã Vọng Nguyệt huyện Yên Phong.

TRẦN VĂN TUYỂN 陳文選20 người xã Hoàng Ma huyện Yên Dũng.

QUÁCH ĐỒNG ĐỨC 郭同德21 người xã Phù Khê huyện Đông Ngàn.

VŨ VINH TIẾN 武榮進22 người xã Phù Ủng huyện Đường Hào.

NGUYỄN NHƯ UYÊN 阮如淵23 người xã Thụy Trang huyện Đường Hào.

Chú thích:

1. Nguyễn Văn Lễ: Xem chú thích 18, Bia số 21.

2. Phí Văn Thuật (1609-?) người xã Thượng Trưng huyện Bạch Hạc (nay thuộc xã Tứ Trưng huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc). Ông làm quan Tự khanh.

3. Trần Ngọc Hậu (1607-?) người xã Lạc Đạo huyện Gia Lâm (nay là xã Lạc Đạo huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên). Ông giữ các chức quan, như Tả Thị lang Bộ Binh, Bồi tụng, tước Quế Phương tử. Sau khi mất, ông được tặng chức Thượng thư Bộ Công. Khi đi thi ông tên là Trần Ngọc Nguyên, sau đổi tên là Trần Ngọc Hậu. Bia Văn miếu Hưng Yên ghi là Dương Ngọc Nguyên.

4. Hoàng Vinh (1614-?) người xã Đại Hoàng huyện Chân Định (nay thuộc xã Tây Lương huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình). Ông làm quan Đại lý Tự khanh, tước Quế Hải tử.

5. Dương Hạo (1615-1672) người xã Lạc Đạo huyện Gia Lâm (nay là xã Lạc Đạo huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên). Ông là con của Dương Thuần, làm quan đến Ngự sử đài Đô Ngự sử và từng được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc).

6. Trương Quang Tiền (1615-1677) người xã Kim Hoạch huyện Thụy Nguyên (nay thuộc xã Thiệu Phúc huyện Thiệu Hóa tỉnh Thanh Hóa). Ông làm quan Đông các Hiệu thư, tước Mai Lâm tử. Sau ông đổi tên là Trương Luận Đạo.

7. Nguyễn Tính (1611-?) người xã Hoa Cầu huyện Văn Giang (nay thuộc xã Nghĩa Trụ huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên). Ông là con của Nguyễn Hằng, làm quan Hữu Thị lang Bộ Lễ, tước Nghĩa Quận công. Sau khi mất, ông được tặng chức Tả Thị lang Bộ Binh.

8. Nguyễn Công Tạo (1586-?) người xã Đại Bái huyện Gia Định (nay thuộc xã Đại Bái huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh). Trước khi đi thi, ông làm Tri phủ, sau làm quan Hàn lâm Hiệu thảo.

9. Nguyễn Văn Quảng (1613-?) người xã Sơn Đồng huyện Đan Phượng (nay là xã Sơn Đồng huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây). Ông là cha của Nguyễn Viết Thứ, làm quan Quốc tử giám Tế tửu. Sau khi mất, ông được tặng chức Hữu Thị lang.

10. Lê Bỉnh Trung (1594-?) người xã Nguyệt Viên huyện Hoằng Hóa (nay thuộc xã Hoằng Quang huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa). Sự nghiệp của ông hiện chưa rõ.

11. Trịnh Lương Bật (1579-1661) người xã Lỗ Xá huyện Cẩm Giàng (nay thuộc huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương). Ông làm quan Tả Thị lang Bộ Hình, tước bá. Sau khi mất, ông được tặng chức Thượng thư Bộ Hình, tước hầu.

12. Lê Nhân Triệt (1612-?) người xã Cổ Đôi huyện Nông Cống (nay thuộc xã Hoàng Giang huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa). Ông là cha của Lê Sĩ Cẩn, làm quan Tả Thị lang Bộ Hình, tước Quế Hải hầu. Sau khi mất, ông được tặng chức Tả Thị lang Bộ Binh. Có tài liệu ghi ông là Lê Sĩ Triệt.

13. Lê Kiêm (1597-?) người xã Bái Cầu huyện Hoằng Hóa (nay thuộc xã Hoằng Thanh huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa). Ông làm quan Đề hình Giám sát Ngự sử.

14. Trịnh Văn Tuấn (1585-?) người xã Tuấn Kiệt huyện Thụy Nguyên (nay thuộc xã Thiệu Phú huyện Thiệu Hóa tỉnh Thanh Hóa). Ông giữ các chức quan, như Hàn lâm Hiệu thảo, Chưởng lại.

15. Đỗ Văn Tổng (1607-?) người xã Thượng Yên Quyết huyện Từ Liêm (nay thuộc Yên Hòa quận Cầu Giấy Tp. Hà Nội). Ông là cha của Đỗ Văn Luận và Đỗ Công Toản, làm quan Thiêm Đô Ngự sử, tước Xuân Lĩnh bá. Sau khi mất, ông được tặng chức Tả Thị lang Bộ Hình.

16. Đặng Thuần Nhân (1607-?) người xã Cẩm Sơn huyện Cẩm Giàng (nay là xã Cẩm Sơn huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương). Ông làm quan Cấp sự trung Bộ Hộ, tước nam.

17. Phạm Đậu (1610-?) người xã Thái Thạch huyện Thanh Miện (nay thuộc xã Hùng Sơn huyện Thanh Miện tỉnh Hải Dương). Ông làm quan đến Hình khoa Đô Cấp sự trung, tước nam.

18. Nguyễn Văn Suyền (1589-?) người xã Chỉ Châu huyện Thanh Hà (nay thuộc xã Thạch Trị huyện Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh). Trước khi đi thi, ông đã giữ chức Tham chính, sau thăng đến Quang lộc Tự khanh.

19. Ngô Nhân Tuấn (1596-?) người xã Vọng Nguyệt huyện Yên Phong (nay thuộc xã Tam Giang huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh). Ông là con của Ngô Nhân Triệt và cháu nội Ngô Nhân Trừng. Ông giữ các chức quan, như Thượng thư Bộ Công, Thượng thư Bộ Hộ, tước bá.

20. Trần Văn Tuyển (1614-1673) người xã Hoàng Mai huyện Yên Dũng (nay thuộc huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang). Ông giữ các chức quan, như Tham tụng, Tể tướng, Thượng thư Bộ Binh, Xuyên Quận công. Sau khi mất, ông được tặng chức Thiếu bảo. Có tài liệu ghi ông tên là Trần Đăng Tuyển.

21. Quách Đồng Đức (1611-?) người xã Phù Khê huyện Đông Ngàn (nay là xã Phù Khê huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh). Trước khi đi thi, ông làm Thiêm sự, sau làm quan Thừa chính sứ.

22. Vũ Vinh Tiến (1620-?) người xã xã Phù Ủng huyện Đường Hào (nay là xã Phù Ủng huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên). ông làm quan Tự khanh, tước tử. Sau khi mất, ông được tặng chức Hữu Thị lang Bộ Binh, tước bá.

23. Nguyễn Như Uyên (1613-?) người xã Thụy Trang huyện Đường Hào (nay thuộc xã Trung Hưng huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên). Ông làm quan Hiến sát sứ, tước tử.

Bia số 34: Năm Dương Hòa thứ 3 (1637)

VĂN BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA ĐINH SỬU NIÊN HIỆU DƯƠNG HÒA NĂM THỨ 3 (1637)

Thái Tổ Cao hoàng đế đời thánh triều lấy võ công định yên thiên hạ, chưa kịp xuống xe đã trước hết tìm thăm các nhà Nho, mở trường học, xuống chiếu cầu hiền tài, mà thịnh ý dựng nền học để kén chọn nhân tài đã sớm thể hiện ra từ hồi mới khai quốc. Liệt thánh hoàng đế lấy văn giáo để mở cuộc thái bình, đặt khoa thi không chỉ một lần, được người kể rất nhiều vậy. Đăng khoa có sách, đề danh có bia, mà ý tôn Nho trọng đạo lại thấy ở các lề phép hàng ngày, ý hay phép tốt có phần hơn xưa trước. Mưu hay nối tiếp sáng ngời, mở đường cho hậu nhân.

Tuy vận nước bỗng lúc gặp bước gian truân, mà mệnh trời vẫn ràng buộc quyến luyến. Trang Tông Dụ hoàng đế, Trung Tông Vũ hoàng đế, Anh Tông Tuấn hoàng đế lập lại tổ nghiệp để cứu dân, phấn chí dấy nghĩa quân để dẹp loạn. Tất cả đều nhờ có Thế tổ Minh Khang thái vương phò giúp nhật nguyệt, chỉnh đốn càn khôn, bèn trước hết mở thi Chế khoa rộng vời tài tuấn. Thế Tông Nghị hoàng đế nắm giữ đại quyền, lo mở mang tổ nghiệp, thực nhờ có Thành Tổ Triết vương kính giúp hoàng gia cầu tìm hiền triết. Đang lúc chấn tác thần uy, khai sáng cơ đồ, đã một lần mở thi Chế khoa và bốn khoa thi Tiến sĩ. Kíp đến khi dẹp tan dư dảng nghịch Mạc, thu phục kinh đô, lại theo quy chế nhà Chu tôn vinh người hiền, đặt khoa thi theo phép nhà Hán để kén chọn kẻ sĩ, nhân tài bắt đầu đông đảo, đương thời khen ngợi cho là đời trị bình.

Kính Tông Huệ hoàng đế đảm đương hoàng cực ngôi kiền, nhân thời nắm vận, thực nhờ Thành Tổ Triết vương chỉnh đốn triều cương, rộng cầu các bậc Nho học, kẻ sĩ xuất thân khoa mục đều được đăng dụng vào triều, công lao vun trồng sáng ngời đương đại.

Kính nghĩ: Hoàng đế bệ hạ nắm vận trùng hanh, nối tiếp giữ gìn quy chế cũ. Thực nhờ [Đại nguyên súy Thống quốc chính Sư phụ Thanh vương] giữ yên xã tắc, thu hút chiêu nạp anh tài, bèn mở ba khoa thi vào các năm Mậu Thìn, Tân Mùi, Giáp Tuất mà kẻ sĩ tài giỏi văn chương đông đảo. Năm Đinh Sửu niên hiệu Dương Hoà thứ 3 lại theo thành lệ mở khoa thi Hội các sĩ nhân trong nước, đăng tên dự thi đông đến mấy nghìn, chọn hạng trúng cách chỉ được 20 người. Ngày hôm sau vào Điện thí, Hoàng thượng thân ra đề thi văn sách, hỏi về đạo trị nước. Bấy giờ Đề điệu là Thái bảo Kiên Quận công Trịnh Quân, Tri Cống cử là Binh bộ Thượng thư kiêm Quốc tử giám Tế tửu Thiếu phó Tuyền Quận công Nguyễn Duy Thì, Giám thí là Hộ bộ Tả Thị lang Mai Quận công Nguyễn Tiến Dụng, Lễ bộ Hữu Thị lang Thọ Hải hầu Trần Hữu Lễ vâng mệnh dâng quyển tiến đọc. Hoàng thượng sáng suốt xem xét, định thứ bậc cao thấp. Ban Tiến sĩ cập đệ cho bọn Nguyễn Xuân Chính 3 người, ban Tiến sĩ xuất thân cho bọn Nguyễn Viết Thường 2 người, ban đồng Tiến sĩ xuất thân cho bọn Nguyễn Cổn 15 người. Sai xướng danh treo bảng để tỏ sự vinh quang cho các sĩ tử, ban cho tước trật để tỏ lòng ưu đãi, ban áo mũ yến tiệc để tỏ hậu lễ. Bấy giờ sĩ tử và dân chúng trầm trồ ngợi khen, nối nhau kéo đến chật cả hai bên đường để đón xem, cho Bắc đẩu khôi tinh lại hiện ra ngày nay, ý nói thánh triều tôn Nho hơn cả thời xưa nên mới được như thế chăng?

Khoa mục được tôn trọng như thế, song việc dựng bia đá đề danh theo lệ thì lúc đó chưa kịp cử hành. Giờ đây Thánh thượng xem xét đủ việc xưa nay, nghĩ muốn vun đắp mệnh mạch. Thực nhờ [Đại nguyên súy Thống quốc chính Sư phụ Thanh vương] sáng nối nghiệp lớn, nghĩ mưu lớn dành cho đời sau, chuyên uỷ cho [Nguyên súy Chưởng quốc chính Tây Định vương] lo yên thiên hạ, sùng chuộng tư văn, bèn sai dựng bia khắc đá cho các khoa Chế khoa và khoa Tiến sĩ từ hồi Trung hưng mà trước chưa có bia. Đặc sai thần soạn bài ký về khoa thi Tiến sĩ năm Đinh Sửu niên hiệu Dương Hòa thứ 3.

Thần kính vâng mệnh sáng, không dám lấy sự vụng về nông cạn để chối từ. Kính cẩn dâng lời rằng:

Phàm trời sinh muôn vật là để bày bố khí vận, điều hòa mưa móc; vua được người hiền là để hoàn thành mỹ giáo, rộng mở cơ đồ. Các bậc đế vương thời xưa cho đến các triều Hán, Đường, Tống, chưa có đời nào không coi trọng hiền tài mà có được trị bình. Nghĩ quốc triều, chế độ kỷ cương sáng tỏ, khuôn hay phép tốt đầy đủ rõ ràng. Làm rạng danh đời xưa mà chấn tác cho đời sau chính là lúc này đây !

Kính nghĩ: Thánh thượng sáng suốt, tôn sùng Nho đạo, thấy rằng lừng lẫy ở một thời sao bằng để tiếng thơm tới muôn thuở, cho nên khắc đá đề danh khoa này dựng ở cửa nhà Thái học là để rạng rỡ sự nghiệp đến vô cùng và lưu truyền tiếng tăm mãi mãi. Vậy thì kẻ sĩ may mắn được đăng tên vào tấm đá này, phải nên đáp ơn nước thế nào đây? Nếu biết dồi mài trung nghĩa, gắng sức liêm cần, mong cho vua được như Nghiêu Thuấn, muốn cho mình được như Cao Quỳ, làm vị Trạng nguyên trung hiếu, làm bậc quân tử ngọc vàng, khiến cho công danh rực rỡ, sự nghiệp chói lòa, để người đời sau tới đây trèo lên bia mà xem, tất phải nghiêm trang nét mặt, trung nghĩa đầy lòng mà ca ngợi đó là đại thần của xã tắc, đó là đá trụ của đạo Nho, được như thế thì may lắm. Còn như trái lại, thì người ta sẽ chỉ trích chê cười, cho là ngọc trắng mang nhơ, bia kia lấm bẩn, há chẳng nên thận trọng lắm sao! Thế thì bia này dựng lên đủ để bồi đắp danh tiết tới nghìn vạn đời, cũng đủ để tỏ rõ đặt quốc gia trên nền tảng vững bền muôn ngàn năm đến vô cùng.

Thần kính cẩn làm bài ký.

Dực vận Tán trị công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Thượng thư Bộ Lễ kiêm Hàn lâm viện Thị giảng, Tham Chưởng Hàn lâm viện sự, Bạt Quận công Thượng trụ quốc Dương Trí Trạch vâng sắc nhuận.

Mậu lâm lang Hàn lâm viện Hiệu thảo Trịnh Cao Đệ1 vâng sắc soạn.

Bia dựng ngày 16 tháng 11 niên hiệu Thịnh Đức năm thứ 1 (1653) Hoàng Việt.

Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, 3 người:

NGUYỄN XUÂN CHÍNH 阮春正2 người xã Phù Chẩn huyện Đông Ngàn.

NGUYỄN NGHI 阮沂3 người xã Kim Thanh huyện Vũ Tiên.

NGUYỄN THẾ KHANH 阮世卿4 người xã Phù Lưu huyện Đông Sơn.

Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, 2 người:

NGUYỄN HỮU THƯỜNG 阮有常5 người xã Hải Yến huyện Quảng Xương.

NGUYỄN SÁCH HIỂN 阮策顯6 người xã Dương Sơn huyện Đông Ngàn.

Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 15 người:

NGUYỄN CỔN 阮滾7 người xã Trà Lâm huyện Siêu Loại.

PHẠM VĨNH MIÊN 范永綿8 người xã Thanh Da huyện Lương Tài.

DƯƠNG HOÀNG 楊潢9 người xã Lạc Đạo huyện Gia Lâm.

NGÔ VĂN CHÍNH 吳文政10 người xã Phù Vệ huyện Đường Hào.

PHẠM LIỄN 范輦11 người xã Ngọc Cục huyện Đường An.

LÊ HƯNG NHÂN 黎興仁12 người xã Viên Nội huyện Chương Đức.

NGÔ TRIỆT 吳澈13 người xã Đường Hào huyện Đường Hào.

TRẦN KHÁI 陳概14 người xã Quất Động huyện Thượng Phúc.

LƯƠNG ĐẠT 粱達15 người xã Hoàng La huyện Hoằng Hóa.

NGUYỄN NHUẬN 阮潤16 người xã Chi Nê huyện Chương Đức.

NGUYỄN KINH HỌC 阮經學17 người xã An Khải huyện Đường Hào.

NGUYỄN VỊ 阮渭18 người xã Nguyệt Viên huyện Hoằng Hóa.

NGUYỄN NHÂN ĐẠI 阮仁大19 người xã Thượng Đáp huyện Thanh Lâm.

LÊ ĐỨC VỌNG 黎德望20 người xã Vân Canh huyện Từ Liêm.

NGUYỄN ĐẠT 阮達21 người xã Đông Phiên huyện Thanh Hà.

Trung thư giám hoa văn học sinh, người xã Thái Lạc huyện Văn Giang, Đỗ Minh Nhĩ vâng viết chữ (chân kiêm chữ triện).

Chú thích:

1. Trịnh Cao Đệ: Xem chú thích 2, Bia số 23.

2. Nguyễn Xuân Chính (1588-?) người xã Phù Chẩn huyện Đông Ngàn (nay là xã Phù Chẩn huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh). Ông là ông nội của Nguyễn Xuân Đỉnh. Ông giữ các chức quan, như Tả Thị lang Bộ Lại, Nhập thị Kinh diên, tước Đạo Ngạn bá. Sau khi mất, ông được tặng chức Thượng thư, tước hầu. Có tài liệu ghi ông là Nguyễn Xuân Sinh.

3. Nguyễn Nghi (1577-1664) nguyên quán xã Tòng Hóa huyện Thanh Lâm (nay thuộc huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương), trú quán xã Kim Thanh huyện Vũ Tiên (nay là xã Tiền Phong thị xã Thái Bình). Ông giữ các chức quan, như Thừa chính sứ, Tả Thị lang. Sau khi mất, ông được tặng chức Thượng thư.

4. Nguyễn Thế Khanh (1601- 1670) người xã Phù Lưu huyện Đông Sơn (nay thuộc xã Quảng Thắng thị xã Thanh Hóa tỉnh Thanh Hóa). Ông làm quan Hữu Thị lang Bộ Lễ, tước Phương Lộc hầu. Sau khi mất, ông được tặng chức Tả Thị lang.

5. Nguyễn Hữu Thường (1574-1661) người xã Hải Yên huyện Quảng Xương (nay huyện Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hóa). Ông giữ các chức quan, như Thừa chính sứ, Tả Thị lang, về trí sĩ. Sau khi mất, ông được tặng chức Thượng thư, tước Quận công.

6. Nguyễn Sách Hiển (1601-?) người xã Dương Sơn huyện Đông Ngàn (nay thuộc xã Tam Sơn huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh). Ông làm quan Thừa chính sứ.

7. Nguyễn Cổn (1589-?) người xã Trà Lâm huyện Siêu Loại (nay thuộc xã Trí Quả huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh). Ông làm quan Đề hình Giám sát Ngự sử, từng được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc) và ông bị mất trên đường đi. Sau khi mất, ông được tặng chức Hữu Thị lang Bộ Công. Có tài liệu ghi ông là Nguyễn Tương.

8. Phạm Vĩnh Miên (1587-?) người xã Thanh Da huyện Lương Tài (nay thuộc xã Quảng Phú huyện Lương Tài tỉnh Bắc Ninh). Ông là con của Phạm Lương Hiển, làm quan Hữu Thị lang Bộ Binh và được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc).

9. Dương Hoàng (1597-1656) người xã Lạc Đạo huyện Gia Lâm (nay là xã Lạc Đạo huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên). Ông làm quan Tả Thị lang Bộ Công, tước Thọ Lâm hầu. Sau khi mất, ông được tặng Thượng thư.

10. Ngô Văn Chính (1597-?) người xã Phù Vệ huyện Đường Hào (nay thuộc huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên). Ông làm quan Phụng Thiên Phủ doãn.

11. Phạm Liễn (1584-?) người xã Ngọc Cục huyện Đường An (nay thuộc xã Thúc Kháng huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương). Ông là con của Phạm Điển, làm quan Hữu Thị lang Bộ Công. Sau khi mất, ông được tặng chức Hữu Thị lang Bộ Hộ.

12. Lê Hưng Nhân (1607-?) người xã Viên Nội huyện Chương Đức (nay là xã Viên Nội huyện Ứng Hoà tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Hộ khoa Đô Cấp sự trung.

13. Ngô Triệt (1588-?) người huyện Đường Hào (nay thuộc huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên). Ông giữ các chức quan, như Tả Thị lang Bộ Hộ, Tả Thị lang Bộ Lại. Sau khi mất, ông được tặng chức Thượng thư, tước Quận công.

14. Trần Khái (1606-?) người xã Quất Động huyện Thượng Phúc (nay là xã Quất Động huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Tả Thị lang, tước Thọ Phúc hầu và từng được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc). Sau khi mất, ông được tặng Thượng thư, tước Quận công.

15. Lương Đạt (1580-?) người xã Hoàng La huyện Hoằng Hóa (nay thuộc xã Hoằng Xuân huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa). Ông làm quan Tham chính.

16. Nguyễn Nhuận (1607-?) người xã Chi Nê huyện Chương Đức (nay thuộc xã Trung Hòa huyện Chương Mỹ tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Tả Thị lang Bộ Lại, tước Phương Nam tử và được cử làm Chánh sứ (năm 1667) sang nhà Thanh (Trung Quốc), mất trên đường đi. Sau khi mất, ông được tặng chức Thượng thư Bộ Công. Có tài liệu ghi là Ngô Thuận.

17. Nguyễn Kinh Học (1585-?) người xã An Khải huyện Đường Hào (nay thuộc xã Bắc Sơn huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên). Ông là em của Nguyễn Kinh Tế và làm quan Thừa chính sứ.

18. Nguyễn Vị (1608-?) người xã Nguyệt Viên huyện Hoằng Hóa (nay thuộc xã Hoằng Quang huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa). Ông làm quan Lại khoa Đô Cấp sự trung.

19. Nguyễn Nhân Đại (1579-1657) người xã Thượng Đáp huyện Thanh Lâm (nay thuộc xã An Châu huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương). Ông làm quan Đô Cấp sự trung, sau thăng Tự khanh.

20. Lê Đức Vọng (1605-1669) người xã Vân Canh huyện Từ Liêm (nay là xã Vân Canh huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Thừa chính sứ Hải Dương, tước Hương Thụy tử.

21. Nguyễn Đạt (1609-?) người xã Đông Phiên huyện Thanh Hà (nay thuộc xã Tân An huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương). Ông làm quan Giám sát Ngự sử và từng được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc).

Bia số 33: Năm Đức Long thứ 3 (1631)

VĂN BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA TÂN MÙI NIÊN HIỆU ĐỨC LONG NĂM THỨ 3 (1631)

Trời mở thái bình, sao Khuê rạng soi văn trị, ý là có bậc vua sáng mở mang giáo hóa cho đời chăng?

Kính nghĩ: Hoàng thượng bệ hạ gìn giữ cơ đồ lớn lao, vẻ vang đảm đương mệnh lớn, chưa rỗi việc khác đã chú trọng việc mở Nho khoa. Bèn vào năm Tân Mùi, ban chiếu thư truyền cho các phủ huyện trong nước tiến cử sĩ tử, bủa mẻ lưới lớn thu lấy anh tài, chọn được 5 người thuộc hạng xuất sắc. Đó là khoa thứ hai kể từ buổi Trung hưng.

Ngày hôm sau, Hoàng thượng ngự ở hiên điện, ra bài thi hỏi về đạo trị nước của các đế vương. Đề điệu là Thái phó Lỵ Quận công Lê Lựu, Tri Cống cử là Lễ bộ Thượng thư kiêm Hàn lâm viện Thị giảng Chưởng Hàn lâm viện sự Đông các Đại học sĩ Thiếu uý Lan Quận công Nguyễn Thực, Giám thí là bọn Lại bộ Tả Thị lang Lai Phong hầu Nguyễn Tuấn, Lễ bộ Tả Thị lang Xuân Lại hầu Nguyễn Tự Cường dâng quyển lên đọc. Hoàng thượng đặc cách xem xét, ban cho Nguyễn Thọ Quyến đỗ Tiến sĩ cập đệ, bọn Lê Biện hai người đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Nguyễn Danh Thọ hai người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Thế là khôi nguyên khoa này lại có người đỗ. Ban cho áo mũ cân đai để đẹp thân, cho dự yến nghe hát để thỏa lòng, ban cho tước cao lộc hậu để tỏ lòng ưu ái, lễ đãi hiền thật vẻ vang long trọng. Đến nay lại theo lệ xưa mà mở thêm khuôn khổ, sai từ thần soạn bài ký khắc vào bia đá. Bọn thần quê mùa nông cạn, sao đủ sức nêu cao thánh đức cho xứng đáng một trong muôn phần của ý chỉ cao minh. Nhưng bọn thần đã lạm dự chức việc ở nơi tướng phủ, há dám không cúi đầu rập đầu mà chép rằng:

Trời đã vì nước sinh người hiền để giúp thì nước ngày càng thịnh trị. Thánh nhân vâng theo ý trời để trị nước, chăm lo cầu hiền thì người hiền tìm đến ngày một đông. Cho nên các bậc thánh đế minh vương đời trước chẳng ai không chú trọng việc cầu hiền nên mới được thịnh trị như vậy.

Kính nghĩ: Thánh triều Thái Tổ Cao hoàng đế dùng võ công định thiên hạ, lấy văn giáo mở thái bình, trước hết lập nền quốc học, trong chọn cử hiền tài, nhờ thế văn giáo dần dần chấn hưng. Các bậc thánh giữ cơ nghiệp trị bình, bồi đắp nền giáo hóa, đặt khoa thi Tiến sĩ, dựng bia ở nhà Thái học, văn phong nhờ đó mà được chấn hưng.

Từ đó về sau, vua thánh tôi hiền nối nhau kế tục, chế độ rõ ràng. Tuy nhất thời gặp cơn vận bĩ, song trung hưng lại có vua hiền. Trang Tông Dụ hoàng đế, Trung Tông Vũ hoàng đế, Anh Tông Tuấn hoàng đế, đức cả mưu cao, quyết lòng dẹp loạn. Đều nhờ Thế Tổ Minh Khang thái vương khởi xướng nghĩa binh, rộng kiếm nhân tài. Noi theo phép nhà Đường đặt khoa thi chọn kẻ sĩ, theo phép nhà Tống để kén nhân tài, cho nên chính nhân quân tử nối nhau xuất hiện để được dùng ở thời thịnh sáng.

Thế Tông Nghị hoàng đế, Kính Tông Huệ hoàng đế khôi phục cơ đồ xưa, mở mang giềng mối lớn. Thực nhờ Thành Tổ Triết vương giữ vững xã tắc, cất dùng hiền tài, lớp lớp đông đảo các bề tôi nghiêm túc, rạng rỡ sân triều, thời bấy giờ có tiếng là đắc nhân. Nhưng việc dựng bia đá đề danh thì chưa kịp làm, chấn chỉnh lại việc đó chính là lúc này vậy.

Đến nay Thánh thượng đoan nghiêm chốn cửu trùng, lo gìn giữ nước nhà, trăm việc sửa sang pháp độ, đạo trị nước còn mong có người kính giúp. Thực nhờ [Đại nguyên súy Thống quốc chính Thượng chủ Sư phụ Công cao Thông đoán Nhân thánh Thanh vương] lập công tích để yên lòng người, để lại mưu lược lâu dài cho con cháu, giao trọn quyền cho [Đại nguyên soái Tổng quốc chính Tây Định vương] lo yên thiên hạ, phục hưng nền văn. Phàm những người đỗ Tiến sĩ Chế khoa của bản triều đều đem khắc vào bia đá tốt truyền mãi tới đời sau, chính là ngụ ý khuyến khích cho lòng người phấn chấn.

Kẻ sĩ may mắn được khắc tên trên bia đá này cần phải nêu cao đức liêm khiết, cần mẫn; bịt lấp ngõ tham lam, ganh ghét; lấy lòng trung thờ vua, đem ơn huệ đến cho dân; ngồi ở triều đình thì giữ công tâm, khiến lũ gian hùng rụt cổ; ra ngoài thì thi hành lương chính để trăm họ thỏa lòng. Được như thế trên không phụ ơn triều đình ưu ái, dưới không phụ hoài bão giúp vua lợi dân. Công lao lừng lẫy một thời, tiếng tăm lưu truyền hậu thế, khiến người đời sau xem bia đá này sẽ chỉ tay vào tên mà nói: Người này là cây trụ đá chống trời, người kia đúng là mai rùa cỏ thi. Nếu không được như vậy, người ta sẽ nhìn vào tên mà bảo rằng: Người này là kẻ cầm quyền sâu mọt hại nước, người kia là kẻ tàn ác hại người. Công luận nghiêm xét, muôn thuở chẳng mòn, há chẳng nên thận trọng sao?

Xem thế đủ biết Hoàng triều khuyến khích sâu xa, biểu dương hết mực, chính là muốn có được những người tài năng uyên bác để giúp lo việc trị, khiến cho nước nhà vững như bàn thạch.

Thần kính cẩn làm bài ký.

Dực vận Tán trị công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Thượng thư Bộ Lễ kiêm Hàn lâm viện Thị giảng Tham Chưởng Hàn lâm viện sự, Bạt Quận công Thượng trụ quốc Dương Trí Trạch vâng sắc nhuận.

Mậu lâm lang Hàn lâm viện Hiệu thảo Trịnh Cao Đệ1 vâng sắc soạn.

Trung thư giám Hoa văn học sinh Nguyễn Diễn người xã Bình Dân huyện Đông Yên vâng sắc viết chữ (chân).

Trung thư giám Hoa văn học sinh Đỗ Công Vị người giáp Tây Đài phường Thịnh Quang huyện Quảng Đức phủ Phụng Thiên vâng sắc viết chữ triện.

Bia dựng ngày 16 tháng 11 niên hiệu Thịnh Đức thứ 1 (1653) Hoàng Việt.

Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, 1 người:

NGUYỄN THỌ QUYẾN 阮壽眷2 người xã Lạc Sơn huyện Chí Linh.

Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, 2 người:

LÊ BIỆN 黎抃3 người xã Phủ Lý huyện Đông Sơn.

NGUYỄN CAO NHẠC 阮高岳4 người xã Hoài Bão huyện Tiên Du.

Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 2 người:

NGUYỄN DANH THỌ 阮名壽5 người xã Nguyệt ng huyện Thanh Trì.

NGUYỄN VĂN TRẠC 阮文濯6 người xã Mai Dịch huyện Từ Liêm.

Chú thích:

1 Trịnh Cao Đệ: Xem chú thích số 2, Bia số 23.

2 Nguyễn Thọ Quyến (1578-1672) người xã Lạc Sơn huyện Chí Linh (nay thuộc xã An Lạc huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương). Ông làm quan Thượng thư Bộ Công, hàm Thiếu bảo, tước Cẩm Quận công. Khi đi thi, ông tên là Nguyễn Minh Triết, được vua phê đổi tên là Thọ Quyến vì vậy các sách đăng khoa lục đều ghi là Nguyễn Minh Triết. Có tài liệu còn ghi ông tên là Nguyễn Hậu Quyến.

3 Lê Biện (1586-?) người xã Phủ Lý huyện Đông Sơn (nay thuộc xã Thiệu Trung huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa). Ông làm quan Lại khoa Đô Cấp sự trung, tước Cẩm Nham tử.

4 Nguyễn Cao Nhạc (1589-1668) người xã Hoài Bão huyện Tiên Du (nay thuộc xã Liên Bão huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh). Ông làm quan Hàn lâm viện Thị độc, tước Tuy Lộc bá. Có tài liệu ghi ông là Nguyễn Kiều Nhạc.

5 Nguyễn Danh Thọ (1603-?) người xã Nguyệt Áng huyện Thanh Trì (nay thuộc xã Đại Áng huyện Thanh Trì Tp. Hà Nội). Ông làm quan Tự khanh, tước tử. Sau khi mất, ông được tặng chức Hữu Thị lang Bộ Công.

6 Nguyễn Văn Trạc (1598-1672) người xã Mai Dịch huyện Từ Liêm (nay thuộc phường Mai Dịch quận Cầu Giấy Tp. Hà Nội). Ông giữ các chức quan, như Tả Thị lang Bộ Lễ, Thượng thư Bộ Công, tước Liêm Quận công. Sau khi mất, ông được tặng chức Thiếu bảo.

Bia số 32: Năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628)

VĂN BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA MẬU THÌN NIÊN HIỆU VĨNH TỘ 10 (1628)

Hoàng Việt muôn vạn năm, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10, năm Mậu Thìn, mùa xuân thi Hội các sĩ nhân. Các sĩ đại phu được chọn dự tuyển 18 người, chính là khoa thi thứ nhất1 đời Trung hưng vậy.

Ngày hôm sau, Hoàng thượng lâm ngự Điện thí, hỏi về phép trị đạo xưa nay. Sai Đề điệu là Thái bảo Quỳnh Quận công Trịnh Đệ, Tri Cống cử là Binh bộ Thượng thư Thái uý Đăng Quận công Nguyễn Khải, Hình bộ Thượng thư kiêm Ngự sử đài Đô Ngự sử, Thiếu phó Đường Quận công Nguyễn Danh Thế, Giám thí là Lại bộ Hữu Thị lang Lai Phong bá Nguyễn Tuấn cùng các quan hữu ti chia giữ các việc.

Đến khi dâng quyển đọc, Hoàng thượng sáng suốt ngự lãm, xét định thứ tự cao thấp. Ban cho Giang Văn Minh, 1 người đỗ Tiến sĩ cập đệ, bọn Dương Cảo 3 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Đặng Phi Hiển 14 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Về danh hiệu Cập đệ2 thì từ khi khôi phục mới bắt đầu thấy có ở khoa này. Còn việc ban cấp áo mũ cho dự yến tiệc đều theo lệ cũ, tước trật chức vị nhất nhất đều theo quy chế đã lập thành. Chỉ còn việc dựng bia đề danh hồi đó chưa kịp làm. Cử hành việc ấy chính là ngày hôm nay vậy.

Hoàng thượng buông tay áo ngự ngôi cao trong cõi, sâu nghĩ về đạo trị nước. Thực nhờ [Đại nguyên súy Thống quốc chính Sư phụ Thanh vương] đem vương thất phò tá hoàng gia, trị vì thiên hạ, vì muôn đời mở cuộc thái bình, chuyên uỷ cho [Nguyên súy Chưởng quốc chính Tây Định vương] khôi phục khuếch trương chính sự, chấn chỉnh văn phong, bèn sai từ thần soạn ký văn (để khắc bia khoa này).

Bọn thần may được giữ chức vị nội tướng, viết bài văn ấy tất phải do bậc đại thủ bút, cố nhiên không thể kham đặng, nhưng chức vụ đáng phải làm, cho nên không dám chối từ. Kính cẩn cúi đầu rập dầu chép rằng:

Đạo trời không nói mà vẫn hoàn thành công tích, tất là nhờ vào ngũ hành để tuyên minh khí vận. Thánh nhân có ý muốn chấn hưng mọi việc cho đến mức chí lý tất phải nghe nhiều người bình nghị để mà cất nhắc bổ dụng hiền tài. Xa trông việc cầu hiền của các đế vương xưa: phép xét cử thì phỏng theo đời Nghiêu Thuấn mà những người tài giỏi đều được vào triều. Phép trưng cầu thì thi hành ở đời Thương Chu mà tuấn kiệt đều được bố trí vào các chức vị, cho nên việc trị nước sáng rỡ ngời ngời, thành tựu đạt được thật cao thật lớn, đầy khắp trời đất. Xuống đến các đời Hán, Đường, Tống, các đời vua được gọi là trị không đời nào không lấy cầu tìm hiền tài làm công việc trước nhất. Nhưng thịnh ý biểu dương khích lệ hiền tài chưa có đời nào được như các bậc thánh tổ thần tông đời bản triều: quy mô to lớn, khuôn phép tốt đẹp, rất kỹ càng, rất đầy đủ. Tuy đến giữa chừng quốc bộ gian nan, Nho đạo cơ hồ chỉ còn mỏng manh như sợi chỉ. May mà có minh quân thánh chúa đương thời lo toan khôi phục nên mới chấn hưng lên được: Trang Tông Dụ hoàng đế, Trung Tông Vũ hoàng đế, Anh Tông Tuấn hoàng đế dựng lại càn khôn, tất cả nhờ có Thế Tổ Minh Khang thái vương giúp cầu tìm hiền tài tuấn kiệt, cùng chung lo kỷ cương. Thế Tông Nghị hoàng đế, Kính Tông Huệ hoàng đế làm sáng lại nhật nguyệt, thực nhờ Thành Tổ Triết vương thu phục kinh thành, rộng vời người tài giỏi, khanh sĩ đứng chật sân triều, được người còn thịnh hơn cả nhà Hán. Nhưng việc khắc đá đề danh thì hồi ấy chưa kịp làm.

Đến nay Thánh thượng chạnh nghĩ các khoa thi Chế khoa, thi Tiến sĩ của bản triều được người rất nhiều, nếu không dựng bia đề danh thì làm sao có thể nêu cao thịnh sự của Nho khoa, để người đời nay lớn lao trông vào. Bèn sai Bộ Công khắc đá, theo thứ tự đề họ tên từng người, dựng ở cửa nhà Thái học để tỏ ý ngợi khen khích lệ, giúp cho hậu thế có chỗ chiêm ngưỡng mà thấy được sự vẻ vang, để mà cố rèn mài danh tiết, gắng lên kính giúp hoàng gia, há chỉ để làm hư văn mà thôi đâu!

Ôi! Sự tôn trọng ngợi khen của triều đình thật đã là rất mực, kẻ sĩ sinh ở đời này mới thật vinh hạnh làm sao! Vả lại về khoa này trong số những người được dự đề danh trên bia đá này, đến một nửa đã qua đời. Nhưng con người của họ trung chính hay gian tà, người hiền hay kẻ xấu thì có chỗ không thể che giấu được. Đến nay hiện làm quan tại chức thì quả thật phải giữ một tấm lòng sắt đá trung thành, dâng lời nói thuốc đắng kim châm để giúp vua giữ gìn quy củ; mưu lo ích nước, thi triển yên dân, làm rường cột quốc gia, làm bậc đại thần trụ đá miếu đường, giúp vua được như vua Nghiêu Thuấn, giúp đời được như đời Đường Ngu. Như thế thì người ta sẽ bảo nhau rằng: “Ông mỗ là bậc tể phụ, ông nọ là bậc hiền quan, nổi bật hơn cả trong số mười tám học sĩ”, tiếng tốt cũng sẽ theo đó mà được lan truyền ngưỡng mộ. Còn như kẻ bên ngoài ngọt miệng mà trong lòng đao kiếm, bên trong hiểm độc mà bên ngoài giả bộ ngu khờ, chỉ mưu toan cho bản thân, ít màng lo quốc chính, thì người ta sẽ nhìn vào đây mà bảo: “Kẻ ấy gian tà, kẻ ấy xảo trá, không biết từ đâu mà lại lọt được vào trong số mười tám học sĩ ?”, kẻ ác cũng phải xem bia này để cảnh tỉnh bản thân. Thế thì bia này dựng lên không chỉ để dồi mài tâm chí kẻ sĩ, mà còn để làm vững chắc mệnh mạch nước nhà, quốc gia của bản triều cùng trời đất bền vững lâu dài. Mệnh mạch tinh thần ấy có lẽ là ở đó.

Thần kính cẩn làm bài ký.

Dực vận Tán trị công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Thượng thư Bộ Lễ kiêm Hàn lâm viện Thị giảng Tham Chưởng Hàn lâm viện Bạt Quận công Thượng trụ quốc Dương Trí Trạch vâng sắc nhuận.

Mậu lâm lang Hàn lâm viện Hiệu thảo Trịnh Cao Đệ3 vâng soạn.

Bia dựng ngày 16 tháng 11 niên hiệu Thịnh Đức thứ 1 (1653) Hoàng Việt.

Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, 1 người:

GIANG VĂN MINH 江文明4 người xã Mông Phụ huyện Phúc Lộc.

Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, 3 người:

DƯƠNG CẢO 楊暠5 người xã Hà Lỗ huyện Đông Ngàn.

ĐỒNG NHÂN PHÁI 同仁派6 người xã Thiết ng huyện Đông Ngàn .

NGUYỄN DUY HIỂU 阮惟曉 7 người xã Yên Lãng huyện Yên Lãng.

Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 14 người:

ĐẶNG PHI HIỂN 鄧丕顯8 người xã Thụy Nhi huyện Giao Thủy.

LÊ KHẢ TRÙ 黎可儔9 người xã Phúc Triền huyện Đông Sơn.

NGUYỄN THẾ TRÂN 阮世珍10 người xã Bách Tính huyện Thượng Nguyên.

NGUYỄN HÒA 阮和11 người xã Hoa Thiều huyện Đông Ngàn.

LÃ THÌ TRUNG 呂時中12 người xã Cam Giá huyện Phúc Lộc.

NGUYỄN KHẮC VĂN阮克文13 người phường Hà Khẩu huyện Thọ Xương.

THÂN KHUÊ 申奎14 người xã Phương Đỗ huyện Yên Dũng.

DƯƠNG THUẦN 楊淳15 người xã Lạc Đạo huyện Gia Lâm.

LÊ KÍNH 黎敬16 người xã Quan Trung huyện Đông Thành.

PHẠM CÔNG TRỨ 范公著17 người xã Liêu Xuyên huyện Đường Hào.

NGUYỄN QUANG MINH 阮光明18 người xã Vãn Hà huyện Thụy Nguyên.

NGUYỄN BÌNH 阮評19 người xã Bồng Lai huyện Quế Dương.

NGUYỄN TÀI TOÀN 阮才全20 người xã Bồng Lai huyện Quế Dương.

NGUYỄN TRẠCH 阮澤21 người xã Nham Lang huyện Ngự Thiên.

Trung thư giám Hoa văn học sinh, quê xã Lam Kiều huyện Hoằng Hóa là Lê Đình Thưởng vâng viết chữ (chân).

Quang tiến Thận lộc đại phu Kim quang môn Đãi chiếu kiêm Triện thích thái thừa Quế Lan nam Nguyễn Quang Độ vâng viết chữ triện.

Chú thích:

1. Câu này có thể chỉ là cách nói nhấn mạnh ý nghĩa, còn thực sự thì tính theo các mốc như từ sau khi Trang Tông trung hưng (1533), hoặc sau khi đánh được nhà Mạc thu phục kinh thành (1599) v.v…thì khoa thi này cũng không phải là khoa thứ nhất (đệ nhất khoa), ngay chỉ riêng ở đời Lê Thần Tông thứ 1 (1619-1628) thì trước khoa này cũng đã có khoa thi năm Vĩnh Tộ 5 (1623) .

2. Cập đệ là danh hiệu của hàng Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa).

3. Trịnh Cao Đệ: Xem chú thích số 2, Bia số 23.

4. Giang Văn Minh (1573-1638) người xã Mông Phụ huyện Thượng Phúc (nay thuộc xã Đường Lâm thị xã Sơn Tây tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Tự khanh và được cử đi sứ (năm 1637) sang nhà Minh (Trung Quốc). Sau khi mất, ông được tặng chức Thị lang, tước Vinh Quận công.

5. Dương Cảo (1586-?) người xã Hà Lỗ huyện Đông Ngàn (nay thuộc xã Liên Hà huyện Đông Anh Tp. Hà Nội). Ông làm quan Quốc tử giám Tế tửu.

6. Đồng Nhân Phái (1581-?) người xã Thiết Úng huyện Đông Ngàn (nay thuộc xã Vân Hà huyện Đông Anh Tp. Hà Nội). Ông làm quan Hữu Thị lang Bộ Công. Sau khi mất, ông được tặng chức Thượng thư.

7. Nguyễn Duy Hiểu (1602-?) người xã Yên Lãng huyện Yên Lãng (nay thuộc xã Phú Xuân huyện Tam Đảo tỉnh Vĩnh Phúc). Ông làm quan Thiêm Đô Ngự sử, từng được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc) và bị mất trên đường đi. Sau khi mất ông được tặng chức Tả Thị lang Bộ Hình, tước hầu.

8. Đặng Phi Hiển (1567-1650) người xã Thụy Trung huyện Giao Thủy (nay thuộc huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định). Ông làm quan Đông các Đại học sĩ.

9. Lê Khả Trù (1582-?) người xã Phúc Triền huyện Đông Sơn (nay thuộc huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa). Ông làm quan Hộ khoa Đô Cấp sự trung.

10. Nguyễn Thế Trân (1603-?) người xã Bách Tính huyện Thượng Nguyên (nay thuộc xã Nam Hồng huyện Nam Trực tỉnh Nam Định). Ông làm quan Cấp sự trung.

11. Nguyễn Hòa (1578-?) người xã Hoa Thiều huyện Đông Ngàn (nay thuộc xã Hương Mạc huyện Từ Sơn Sơn tỉnh Bắc Ninh). Ông làm quan Giám sát Ngự sử.

12. Lã Thì Trung (1577-?) người xã Cam Giá huyện Phúc Lộc (nay thuộc xã Cam Thượng huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Hữu Thị lang Bộ Hộ. Sau khi mất, ông được tặng Tả Thị lang Bộ Công.

13. Nguyễn Khắc Văn (1567-?) người phường Hà Khẩu huyện Thọ Xương (nay thuộc quận Hoàn Kiếm Tp. Hà Nội), nguyên quán xã Hoàng Liệt huyện Thanh Trì (nay là xã Hoàng Liệt huyện Thanh Trì Tp. Hà Nội).

14. Thân Khuê (1593-?) người xã Phương Đỗ huyện Yên Dũng (nay thuộc xã Hương Mai huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang). Ông làm quan Tham chính, được cử làm Phó sứ (năm 1637) sang nhà Minh (Trung Quốc) và bị mất trên đường đi. Sau khi mất, ông được tặng Hữu Thị lang Bộ Công, tước hầu.

15. Dương Thuần (1587-1667) người xã Lạc Đạo huyện Gia Lâm (nay thuộc xã Lạc Đạo huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên). Ông giữ các chức quan, như Thừa chính sứ, Hữu Thị lang, tước Nho Lâm bá. Sau khi mất, ông được tặng Thượng thư Bộ Hình, tước hầu.

16. Lê Kính (1587-1699) người xã Quan Trung huyện Đông Thành (nay thuộc xã Sơn Thành huyện Yên Thành Nghệ An). Ông là cha của Lê Hiệu, làm quan Thượng thư Bộ Công, tước hầu. Sau khi mất, ông được tặng hàm Thái bảo, tước Thạc Quận công.

17. Phạm Công Trứ (1602-1675) người xã Liêu Xuyên huyện Đường Hào (nay thuộc xã Nghĩa Hiệp huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên). Ông giữ các chức quan, như Tham tụng, Thượng thư Bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ, Chưởng Lục bộ sự, hàm Thiếu bảo, được ban Quốc lão, tước Yên Quận công, sau thăng Thái tể và thụy là Trung Cần.

18. Nguyễn Quang Minh (1584-?) người xã Văn Hà huyện Thụy Nguyên (nay thuộc xã Thiệu Hưng huyện Thiệu Hóa tỉnh Thanh Hóa). Ông giữ các chức quan, như Đốc thị Thuận Hóa, Tả Thị lang Bộ Lại, tước Mỹ Lộc hầu và từng được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc).

19. Nguyễn Bình (1541-?) người xã Bồng Lai huyện Quế Dương (nay là xã Bồng Lai huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh). Ông là cha của Nguyễn Tài Toàn, làm quan Thượng thư Bộ Công, tước Cẩm Quận công và được cử đi sứ (năm 1637) sang nhà Minh (Trung Quốc). Sau khi mất, ông được tặng chức Thiếu bảo.

20. Nguyễn Tài Toàn (1598-?) người xã Bồng Lai huyện Quế Dương (nay là xã Bồng Lai huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh). Ông là con của Nguyễn Bình và làm quan Tả Thị lang Bộ Lại, tước Đạt Lý Hầu.

21. Nguyễn Trạch (1572-?) người xã Nham Lang huyện Ngự Thiên (nay thuộc xã Cấp Tiến huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình). Ông làm quan Tự khanh.

Bia số 31: Năm Vĩnh Tộ thứ 5 (1623)

VĂN BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA QUÝ HỢI NIÊN HIỆU VĨNH TỘ NĂM THỨ 5 (1623)

Trời mở trung hưng, đời sinh chúa thánh.

Kính nghĩ: Hoàng đế bệ hạ, đảm đương mệnh lớn, nối giữ cơ đồ, lớn lao tôn vinh hiền tài, trọng đãi người có công, mài chí mưu lo trị nước. Thực nhờ Thành Tổ Triết vương kế thừa cơ nghiệp của Thế Tổ thái vương, trước hết dựng lại kỷ cương, chỉnh đốn pháp độ, muốn có được hiền tài trong khắp thiên hạ. Bèn vào năm Quý Hợi niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 5 (1623) mở khoa thi Tiến sĩ. Đặc sai Đề điệu là Thiếu bảo Đông Quận công Lê Cánh, Tri Cống cử là Ngự sử đài Đô Ngự sử Thụy Dương hầu Nguyễn Danh Thế, Giám thí là Lễ bộ Tả Thị lang Phương Tuyền hầu Nguyễn Duy Thì, Lại bộ Hữu Thị lang Nhân Lĩnh hầu Lưu Đình Chất vâng chỉ mở khoa thi Hội. Sĩ nhân trong nước dự thi đông đến hơn 3.000 người, chọn được hạng xuất sắc 7 người.

Ngày lành tháng tư mùa hạ, Hoàng thượng ngự ở cửa điện Kính Thiên, ra bài văn sách ở sân rồng. Trong khi các sĩ tử làm bài, bỗng có Nguyễn Trật làm văn hơi sai thể thức, nên chỉ có 6 quyển được khảo duyệt mà thôi. Các quan hữu ty dâng quyển tiến đọc. Hoàng thượng ngự lãm, lấy Phùng Thế Trung đỗ đầu, 6 người còn lại đều cho đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Vả xét theo lệ cũ, những người được vào thi Đình thì không bị truất nên vẫn cho Nguyễn Trật đỗ cuối bảng, tất cả là 7 người. Vì việc ấy mà kéo dài việc xướng danh yết bảng, đến việc ban cấp áo mũ, yến tiệc vinh quy cũng đều chưa làm đúng lệ cũ. Lúc bấy giờ kẻ sĩ trong nước đều buồn bực trong lòng.

Đến ngày tháng 6 mùa hạ, gặp thời tiết sấm chớp mưa gió1 các quan văn võ tạm rước thánh giá hồi loan để củng cố căn bản, hòa hợp lòng dân để nước nhà được thêm lớn lao rạng tỏ.

Đến tiết trung thu, thực nhờ [Đại nguyên súy Thống quốc chính Sư phụ Thanh vương] kính vâng uy trời, chấn chỉnh nghĩa binh, trên bộ thì voi ngựa kéo đi ầm ầm như sấm, dưới nước thì ghe thuyền thuận dòng xuôi xuống làm tăng thêm uy thế của quân binh, quét dẹp ngụy Mạc, thu phục kinh thành, thanh trừng cung cấm, khiến cho thiên hạ đều thu về một mối, bốn bể trở lại yên bình. Vương thượng bèn giao trọn quyền cho [Nguyên súy Chưởng quốc chính Tây Định vương] thống suất trăm quan, khôi phục mọi việc.

Trong buổi đất nước thái bình, Hoàng thượng bệ hạ tin cậy các bậc Nho thần, rộng tìm người tài tuấn, biết rằng khoa mục là việc quan trọng, Tiến sĩ cần được tuyên dương. Kính nghĩ từ khi quốc triều Trung hưng khôi phục tới giờ, các khoa thi Chế khoa và Tiến sĩ tuyển chọn được nhiều nhân tài, nếu không sắp xếp tên họ, viết lớn khắc sâu vào bia đá, kể rõ công tích, dựng bia đá truyền đến lâu dài, thì làm sao tỏ rõ được sự khuyến khích cho đời sau? Bèn vào tháng 10 niên hiệu Thịnh Đức thứ 1 (1653), Hoàng thượng sai các từ thần chia soạn văn bia, khắc vào đá xanh để biểu dương sự tốt đẹp của Nho khoa, coi là việc tốt của thánh triều. Bọn thần dẫu vụng về nông cạn cũng dám chúc mừng cho nền tư văn cùng các sĩ tử, cung kính cúi đầu rập đầu mà dâng lời rằng:

Khoa mục là việc làm thường xuyên của các triều đại, từ xưa đã có như vậy. Xét từ đời Thành Chu bắt đầu có lựa chọn Tiến sĩ, đến đời Đường Tống, hoặc mở Chế khoa, hoặc thi Tiến sĩ, cũng đều do đường khoa cử mà có được nhân tài kính giúp cho trị giáo, sử sách còn có chứng cớ rõ ràng.

Kính nghĩ: Thánh triều Thái Tổ Cao hoàng đế khi mới được nước, dựng học hiệu, vời hiền tài, duy trì đạo thống, mở ra cuộc thái bình muôn năm. Liệt thánh hoàng đế gìn giữ pháp độ, đặt khoa thi, kén sĩ tử, tô điểm cho cuộc thái bình, mở ra quy chế tốt đẹp cho trăm đời sau. Từ đó thánh nối thần truyền, đều theo đúng lệ cũ.

Than ôi! Hoàng thượng trung hưng nghiệp lớn, mở rộng nhân văn, hội tập thành tựu của các đời vua thánh, tuân theo hiến chương pháp độ của các đời tiền vương, gặp những việc mà tiên triều đã làm thì tuân theo mà giữ gìn, việc gì tiên triều chưa làm thì làm cho đầy đủ và mở rộng thêm. Vả lại khoa này, hồi đó chưa treo bảng vàng ghi tên thì nay chép vào sách đăng khoa lục y theo lệ thi Hội, treo bảng ở đình Quảng Văn để ghi họ tên. Lại sai đề danh bia đá đặt trước cửa nhà Thái học để làm cho thế đạo đẹp đẽ vinh quang. Ôi! kẻ sĩ được ghi tên vào bia đá này, há chẳng vinh hạnh lắm sao?

Hãy lấy một khoa này mà xét. Những người xuất thân khoa này đều là kẻ sĩ tài năng lỗi lạc, uyên thâm rộng rãi. Có người giữ việc nói bàn mà chấn chỉnh được triều cương, có người ở chức vị thấp2 mà bàn luận ngay thẳng đúng đắn, có người chỉ giữ việc quân mà hoạch định sách lược, có người cầm cương ngựa mà bám sát theo hầu. Những bậc học rộng tài năng uyên bác, những danh sĩ trác lạc tuấn dị, văn chương của họ lẫy lừng thiên hạ, mà sự nghiệp hiển rạng ở đời, há lại không có gì ghi nhớ cảm niệm hay sao?

Thảng hoặc có người có danh không có thực, trước tốt sau tì vết thì đó là kẻ Nho rữa nát, là kẻ Nho tiểu nhân, thiên hạ trông vào mà khinh rẻ, coi là vết nhơ của khoa mục. Như thế thì bia đá này là trụ đá của nền danh giáo, nền tảng của cương thường, xem vào đây mà có thể làm chuẩn đích để tự răn đe, thực là có ích cho nền trị bình muôn năm, hoàng triều vững chắc như bàn thạch Thái Sơn vậy.

Bọn thần kính cẩn làm bài ký.

Dực vận Tán trị công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Thượng thư Bộ Lễ kiêm Hàn lâm viện Thị giảng Tham Chưởng Hàn lâm viện sự Bạt Quận công thượng trụ quốc Dương Trí Trạch vâng sắc nhuận.

Mậu lâm lang Hàn lâm viện Hiệu thảo Lê Đình Lại3 vâng sắc soạn.

Trung thư giám Hoa văn học sinh, người giáp Tây Đài phường Thịnh Quang huyện Quảng Đức phủ Phụng Thiên là Đỗ Công Vị vâng sắc viết chữ (chân).

Quang tiến Thận lộc đại phu Kim quang môn Đãi chiếu kiêm Triện thích thái thừa Quế Lan nam Nguyễn Quang Độ vâng sắc viết chữ triện.

Bia dựng ngày 16 tháng 11 niên hiệu Thịnh Đức thứ 1 (1653) Hoàng Việt.

Đã Điện thí nhưng chưa treo bảng vàng, nay căn cứ theo bảng thi Hội ghi tên 7 người:

Đồng Tiến sĩ xuất thân:

NGUYỄN PHI KIẾN 阮丕建4 người xã Dương Liễu huyện Đan Phượng.

NGUYỄN NHÂN TRỪNG 阮仁澄5 người xã Xa Liễn huyện Yên Việt.

PHẠM PHÚC KHÁNH 范福慶6 người xã Man Nhuế huyện Thanh Lâm.

PHÙNG THẾ TRUNG 馮世忠7 người xã Kim Bí huyện Tiên Phong.

NGUYỄN ĐỆ 阮第8 người xã Minh Lương huyện Thiên Lộc.

PHAN BẢNG 潘榜9 người xã Hương Bảng huyện Thạch Thất.

NGUYỄN TRẬT 阮秩10 người xã Nguyệt Viên huyện Hoằng Hóa.

Chú thích:

1 Thích trị vân lôi thời tiết: câu này dùng mấy chữ “sấm chớp mưa gió” để nhắc đến cuộc biến loạn Trịnh Xuân, vua Lê Thần Tông phải lánh về Thanh Hóa.

2 Nguyên văn: “Cư cấp xá”, ở nhà được cấp chứ không có tư dinh. Chỉ quan lại cấp thấp.

3 Lê Đình Lại: Xem chú thích 16, Bia số 37.

4 Nguyễn Phi Kiến (1565-?) người Dương Liễu huyện Đan Phượng (nay là xã Dương Liễu huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Hiến sát sứ.Nhiều tài liệu ghi ông là Phạm Phi Kiến.

5 Nguyễn Nhân Trừng (1587-?) xã Xa Liễn huyện Yên Việt (nay thuộc xã Châu Minh huyện Hiệp Hòa tỉnh Bắc Giang). Ông làm quan Hình khoa Đô Cấp sự trung, tước nam.

6 Phạm Phúc Khánh (1579-?) người xã Man Nhuế huyện Thanh Lâm (nay thuộc huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương). Ông làm quan Tự khanh, tước tử.

7 Phùng Thế Trung (1585-?) người xã Kim Bí huyện Tiên Phong (nay thuộc xã Tiên Phong huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Hiến sát sứ. Có tài liệu ghi là Phùng Thế Triết.

8 Nguyễn Đệ (1577-?) người xã Minh Lương huyện Thiên Lộc (nay thuộc xã Trung Lương huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh). Ông làm quan Tham chính, tước bá, nhưng sau bị truất.

9 Phan Bảng (1594-?) người xã Hữu Bằng huyện Thạch Thất (nay thuộc huyện Thạch Thất tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Hiến sát sứ.

10 Nguyễn Trật (1573-?) người xã Nguyệt Viên huyện Hoằng Hóa (nay thuộc xã Hoằng Quang huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa). Ông làm quan Công khoa Đô Cấp sự trung.