Bia số 25: Năm Hoằng Định thứ 5 (1604)

VĂN BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA GIÁP THÌN NIÊN HIỆU HOẰNG ĐỊNH NĂM THỨ 5 (1604)

Trời mở cơ hội thái bình, ắt có cảnh tượng thái bình; có vận hội văn minh, ắt có điềm văn minh xuất hiện.

Kính nghĩ: Thánh triều Thái Tổ Cao hoàng đế dùng võ công đại định thiên hạ, lấy văn giáo dấy nghiệp thái bình, mà văn giáo càng thêm rực rỡ. Thái Tông Văn hoàng đế nắm mệnh lớn để kế nối phúc lành, đặt khoa mục để chọn kẻ sĩ, nền văn vì thế mà hết sức huy hoàng. Nhân Tông Tuyên hoàng đế khôi phục đời thịnh trị thái bình, tuân theo phép tắc quy củ của tiên đế, rộng buông lưới thu nạp người hiền mà nhân tài nối nhau xuất hiện. Thánh Tông Thuần hoàng đế tinh túy hết mức, ra sức kế thừa, coi trọng kén chọn nho thần, khởi xướng dựng bia Tiến sĩ, vận hội văn minh khai mối bắt đầu từ đây.

Từ đó về sau, thánh nối thần truyền, điển chương kế tục. Dẫu giữa chừng gặp bước gian truân, nhưng đạo Nho chẳng vì thế mà nhơ nhuốc, thế mới biết công dụng của nó rất lớn. Chấn hưng được đạo Nho thì khí tượng trung hưng sẽ tự nhiên trở lại.

Trang Tông Dụ hoàng đế noi theo Thiếu Khang mưu toan khôi phục cơ đồ, nhờ bậc hiền sĩ chung lo việc lớn; Trung Tông Võ hoàng đế dựng nghiệp tổ cứu dân, nhờ sức người giúp đỡ. Anh Tông Tuấn hoàng đế ứng điềm lành dựng bia đá, nắm vận hội trùng quang. Thực là nhờ Thế Tổ Minh Khang thái vương tạo dựng sửa sang lại trời đất, theo phép nhà Đường xưa, bắt đầu mở Chế khoa mà các bậc huân danh thạc phụ xuất thân từ khoa ấy rất nhiều. Thế Tông Nghị hoàng đế sẵn lòng nhân hậu, phấn chí anh hùng, nhờ nhiều ở Thành Tổ Triết vương làm cho nhật nguyệt trở lại quang minh; đặt Chế khoa để trọng đãi những anh tài xuất chúng, lấy khoa Tiến sĩ làm bảng Long hổ, mà sự nghiệp các danh nho đều bắt đầu từ khoa cử, khiến cho nhân tài dùng mãi không hết.

Kính nghĩ: Kính Tông Huệ hoàng đế lấy lập trị giữ nước làm con đường tốt đẹp, lấy cầu hiền kính giúp làm công việc đầu tiên. Lại nhờ có Thành Tổ Triết vương giữ vững nước nhà, khuông phù xã tắc. Bèn vào năm Giáp Thìn niên hiệu Hoằng Định thứ 5, mở khoa thi lớn các sĩ nhân trong nước, đua tài tại trường thi Hội có trên 5000 người. Hữu ty chọn hạng trúng cách kê tên dâng lên. Vào thi Đình, Hoàng thượng đích thân ra bài sách vấn, hỏi về đạo trị nước xưa nay. Đặc sai Đề điệu là Thái bảo Kỳ Quận công Trịnh Ninh, Tri Cống cử là Hộ bộ Thượng thư Vĩnh Lộc bá Nguyễn Văn Giai, Giám thí là Hình bộ Hữu Thị lang Bút Giang nam Lê Đình Túc cùng lo công việc.

Hôm sau, quan Độc quyển dâng quyển lên đọc, Hoàng thượng đích thân ngự lãm, ban thứ tự cao thấp. Cho bọn Nguyễn Thế Tiêu 2 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Đặng Duy Minh 5 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân.

Lại chọn ngày tốt, Hoàng thượng ngự ở cửa điện Kính Thiên, loa xướng tên người đỗ, bộ Lễ rước bảng vàng treo ngoài cửa nhà quốc học. Ban cho áo mão cân đai, sủng ái cho dự yến Quỳnh. Lễ nghi đãi người hiền so với các khoa trước trang trọng đầy đủ hơn nhiều.

Khoa thi Tiến sĩ năm nay lấy được nhiều nhân tài, đều được vẻ vang trọng dụng, bổ nhiệm vào chức vị trong triều, thảy đều có phong thái chính trực, đức khiêm nhường. Quẻ Thái trong Kinh Dịch nói: “Nhổ cỏ tranh được luôn cả cụm rễ”. Kinh Thi có câu: “Nước nhiều kẻ sĩ, giúp vững nhà Chu”, đều cùng nói về việc tốt đẹp này vậy.

Đến nay Hoàng đế bệ hạ trung hưng nghiệp lớn, mở rộng nhân văn, sử dụng nhân tài tạo dựng công lao sự nghiệp. Chính nhờ [Đại nguyên súy Thống quốc chính Thượng chủ Sư phụ Công cao Thông đoán Nhân thánh Thanh vương] trong thống suất trăm quan, ngoài cầm quyền bốn bể để xây dựng lại cuộc thái bình. Uỷ quyền cho [Nguyên soái Chưởng quốc chính Tây định vương] chỉnh đốn kỷ cương trong ngoài, khuếch trương chế độ thái bình, đem Nho học tô điểm cuộc trị bình, đặt khoa mục làm lưới thu nạp người tài tuấn, bốn biển vui tiếng thái bình, muôn dân hưởng đời an lạc. Cảm khái nhớ tới lệ cũ của tiên tổ, vẫn biết rằng Tiến sĩ cần được biểu dương, khoa danh càng nên chú trọng, nhưng việc dựng bia lúc trước chưa làm được, ngày nay cần phải hoàn thành. Bèn sai quan Bộ Công khắc đá, sai từ thần soạn bài ký ghi việc thực, để nêu rõ việc lớn của Nho khoa và tôn vẻ đẹp của thời đại. Bọn thần kính vâng lời ngọc, xiết bao cảm kích vui mừng, bèn cúi đầu rập đầu dâng lời rằng:

Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, phải hết sức tác thành, khoa mục là con đường chính đáng của sĩ tử, nên mở rộng khuyến khích. Tác thành lựa chọn nhân tài, nêu gương khích lệ kẻ sĩ chưa có đời nào được như quốc triều ta. Thánh tổ thần tông nối nhau, đặt ra khuôn hay phép tốt, mở khoa thi chọn người anh tuấn, khắc đá đề danh, thực đã rõ ràng đầy đủ.

Từ hồi Trung hưng tới nay, các khoa thi Chế khoa và Tiến sĩ vẫn mở đều đặn, mà việc khắc đá chưa kịp tiến hành. Nay Thánh thượng mừng cuộc thái bình, lưu tâm phép cổ, mở lại quy mô trị bình, trọng người xuất thân khoa mục, bổ nhậm hết mức ưu ái, chế độ rất mực đầy đủ. Bia đá nguy nga, trường giám sừng sững bảng đề, chính để nêu gương cho sĩ tử, làm trụ đá vững chắc cho nền danh giáo. Xem thế đủ thấy tấm lòng sùng Nho của Thánh thượng so với các đời trước còn có phần hơn.

Kẻ sĩ được ghi tên vào bia đá này, phải nên ghi lòng tạc dạ, báo đáp thế nào cho thật xứng đáng?

Hãy nhìn lại sự nghiệp của những người đỗ khoa này: có vị lấy đạo đức trấn phục nhân tâm, có người đem tài trí sắp đặt việc nước, có người làm thầy dạy mà học trò phần nhiều là bậc danh sĩ; có người chấm bài trường thi mà những người thi đỗ phần nhiều là quan võ quan văn; vâng mệnh đi sứ thì biết đề cao đức của vua mà tôn trọng quốc thể; dự bàn việc lớn thì biết trọng triều đình mà giữ yên xã tắc. Đủ thấy sự tôn vinh của đương thời, là ý khuyến khích đời sau. Thảng hoặc có kẻ ngoài ngọc trong đá, đầu phượng đuôi trĩ, việc làm trái với sở học, cái nhìn thấy không giống điều được nghe thì không thể không bị người đương thời bàn tán mà còn là sự răn đe đời sau nữa.

Thế thì bia đá này dựng lên, chẳng những quan hệ đến phong vận giáo hóa mà còn bổ ích cho đạo trị nước nữa.

Sẽ thấy Thánh thượng giữ được nền thái bình trí trị đến ức muôn năm, hơn hẳn đời trước; nước nhà vững như bàn thạch tới ức vạn năm, so với ngày nay lại càng lâu dài hơn nữa.

Bọn thần kính cẩn làm bài ký.

Dực vận Tán trị công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Thượng thư Bộ Lễ, Hàn lâm viện Thị giảng kiêm Chưởng Hàn lâm viện sự Bạt Quận công Dương Trí Trạch vâng sắc nhuận.

Quang tiến Thận lộc đại phu Hàn lâm viện Hiệu lý Vinh An nam Nguyễn Văn Lễ1 vâng sắc soạn.

Trung thư giám Hoa văn học sinh Đỗ Vĩnh Miên người xã Lộng Đình huyện Văn Giang vâng sắc viết chữ (chân).

Quang tiến Thận lộc đại phu Kim quang môn Đãi chiếu kiêm Triện thích thái thừa Quế Lan nam Nguyễn Quang Độ vâng sắc viết chữ triện.

Bia dựng ngày 16 tháng 11 niên hiệu Thịnh Đức thứ 1 (1653) Hoàng Việt.

Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, 2 người:

NGUYỄN THẾ TIÊU 阮世標2 người xã Mặc Động huyện Chí Linh.

ĐỖ KHẮC KÍNH 杜克敬3 người xã Đan Nhiễm huyện Văn Giang.

Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 5 người:

ĐẶNG DUY MINH 鄧維明4 người xã Tranh Khê huyện Tứ Kỳ.

CẤN VĂN NHẠ 艮文迓5 người xã Cấn Xá huyện Yên Sơn.

NGUYỄN TỰ CƯỜNG 阮自強6 người xã Tiền Liệt huyện Vĩnh Lại.

TẠ ĐÌNH ĐƯƠNG 謝廷璫7 người xã Đại Định huyện Thanh Oai.

TRẦN VĨ 陳瑋8 người xã Hoạch Trạch huyện Đường An.

Chú thích:

1. Nguyễn Văn Lễ: Xem chú thích 18, Bia số 21.

2. Nguyễn Thế Tiêu (1559-?) người xã Mặc Động huyện Chí Linh (nay thuộc xã Đồng Lạc huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương). Ông làm quan Tự khanh, tước tử và từng được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc).

3. Đỗ Khắc Kính (1569-?) người xã Đan Nhiễm huyện Văn Giang (nay thuộc huyện Văn Giang Giang tỉnh Hưng Yên). Ông là anh của Đỗ Khắc Niệm. Ông làm quan Hữu Thị lang Bộ Lại, tước Lễ Quận công và được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc). Có tài liệu ghi là Nguyễn Khắc Kính.

4. Đặng Duy Minh (1551-?) người xã Tranh Khê huyện Tứ Kỳ (nay thuộc xã Đồng Tâm huyện Ninh Giang tỉnh Hải Dương). Ông làm quan Đô Cấp sự trung.

5. Cấn Văn Nhạ (1566-?) người xã Lương Xá huyện Yên Sơn (nay thuộc xã Lam Điền huyện Chương Mỹ tỉnh Hà Tây). Sự nghiệp của ông hiện chưa rõ.

6. Nguyễn Tự Cường (1570-?) người xã Tiền Liệt huyện Vĩnh Lại (nay thuộc huyện Vĩnh Bảo Tp. Hải Phòng). Ông là cháu nội của Nguyễn Đoan Kính. Ông làm quan Hữu Thị lang Bộ Lễ, tước Xuân Quận công và từng được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc). Khi mất, ông được tặng chức Thượng thư, Thiếu bảo.

7. Tạ Đình Dương (1559-1639) người xã Đại Định huyện Thanh Oai (nay thuộc xã Tam Hưng huyện Thanh Oai tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Đề hình Giám sát Ngự sử, tước Lang Khê tử.

8. Trần Vĩ (1564-?) người phường Kim Hoa huyện Thọ Xương (nay thuộc phường Kim Liên quận Đống Đa Tp. Hà Nội), nguyên quán xã Hoàng Trạch (nay thuộc xã Thái Học huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương). Ông làm quan Tả Thị lang Bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ, tước Hương Quận công. Khi mất, ông được tặng chức Thượng thư, hàm Thiếu bảo.

Bia số 24: Năm Hoằng Định thứ 3 (1602)

VĂN BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA NHÂM DẦN NIÊN HIỆU HOẰNG ĐỊNH NĂM THỨ 3 (1602)

Trời có hậu ý sinh người hiền là để dùng cho đời, vua đặt khoa thi là cốt để chọn lựa hiền sĩ.

Kính nghĩ: Kính Tông Huệ hoàng đế kế thừa nghiệp lớn, nối tiếp công lao các đời, làm bậc đế vương trị nước để tôn cao đức lớn của thượng đế. Buổi bấy giờ, nhờ có Thành Tổ Triết vương noi theo đường lối của Thế Tổ Minh Khang thái vương, một lòng khuông phù thiên hạ, chỉnh đốn triều cương, tùy thời ba năm mở một khoa thi, bủa lưới lớn để thu anh tài thiên hạ.

Đặc sai Đề điệu là Thái phó Vĩnh Quận công Trịnh Đồng, Tri Cống cử là Lại bộ Thượng thư Văn Dương hầu Lê Trạc Tú, Giám thí là Hộ bộ Tả Thị lang Cẩm Xuyên bá Phạm Văn Lan chiêu tập sĩ tử tới kinh đô đua tài, chọn được hạng ưu tú 10 người.

Hôm sau Điện thí, vua đích thân xem xét, định thứ tự cao thấp. Cho bọn Nguyễn Đăng 2 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Nguyễn Cung 8 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Ơn vinh rất hậu, trọng dụng rất cao, chỉ có việc khắc đá đề danh là chưa làm được. Hoàn thành ý nguyện của người trước, tất phải đợi bậc minh quân sùng chuộng đạo Nho.

Kính nghĩ: Hoàng thượng nối chí theo việc trước, yêu chuộng văn học, giữ gìn nếp xưa. Thực nhờ [Đại nguyên súy Thống quốc chính Sư phụ Thanh vương] phù trì thánh đức, giữ yên nước nhà, giao quyền cho [Nguyên súy Chưởng quốc chính Tây Định vương] giúp vua cầu hiền, đặt khoa thi chọn kẻ sĩ. Lúc bấy giờ văn vận hanh thông, nhân tài đông đảo, bèn sai quan Bộ Công khắc đá, từ thần soạn bài ký.

Bọn thần kính vâng mệnh sáng, không dám viện cớ vụng về nông cạn chối từ, bèn kính cẩn cúi đầu rập đầu dâng lời rằng:

Đạo trị nước không gì quan trọng hơn nhân tài, mà nhân tài thì phải tiến thân do con đường khoa mục.

Kể từ đời Thành Chu đã có tuyển chọn Tiến sĩ, trải qua các đời Hán, Đường, Tống đều theo đó làm cách thu dụng kẻ sĩ. Như thế nhờ đặt khoa cử mà thu dụng được nhân tài là việc từ xưa đã có.

Kính nghĩ: Thánh triều Thái Tổ Cao hoàng đế dương oai thánh võ, dẹp trừ loạn tặc, chưa kịp xuống xe đã cho dựng quốc học để dưỡng dục nhân tài, đủ làm nền tảng mở ra thái bình muôn thuở.

Thái Tông Văn hoàng đế bẩm tính thông minh, lòng như phụ mẫu, mang văn học để cổ vũ dân chúng, bắt đầu mở Nho khoa mà khoa mục từ đây khởi nguồn. Nhân Tông Tuyên hoàng đế cung kính bản thân mà sửa đúng phép khuôn trong nước, lấy đạo nghĩa trị yên thiên hạ, khôi phục kỷ cương theo điển chế cũ mà nền tư văn từ đó càng được chấn hưng. Thánh Tông Thuần hoàng đế kế thừa cơ nghiệp tổ tông, làm vua làm thầy của trăm họ. Khoa mục thịnh hành mà nhân tài nối nhau xuất hiện. Đăng khoa có sách, đề danh có bia, công đức sáng rạng sử sách, mẫu mực để lại cho muôn đời.

Đời đời thánh nối thần truyền, lớn lao khuôn phép chặt chẽ. Tuy gặp cơn ách vận cơ hồ sụp đổ, nhưng trùng hưng xã tắc lại sinh xuân.

Trang Tông Dụ hoàng đế ngầm suy tiên liệu, mưu lược văn học sâu cao, coi chiêu dụ hiền tài làm kế sách. Trung Tông Vũ hoàng đế noi theo nghiệp cả, rộng mở công xưa, coi việc mở mang đạo Nho làm việc trước nhất.

Anh Tông Tuấn hoàng đế anh tài dũng lược, gom quân tàn nhà Hạ dấy nghĩa chày gậy Hán binh. Thực nhờ Thế Tổ Minh Khang thái vương đem tài giúp vua cứu nước, trổ sức chuyển đất xoay trời, muốn cho năm tháng của vua càng thêm tưới sáng, bèn rộng mở khoa thi mà nhân tài vui lòng ra giúp nước.

Thế Tông Nghị hoàng đế dựng lại tổ nghiệp, cứu muôn dân, ra oai thần võ dẹp yên bốn biển, rộng ban văn giáo, cất nhắc trọng dụng nhân tài. Lại nhờ có Thành Tổ Triết vương ra công trị nước, tìm kiếm anh tài. Bắt đầu mở lại khoa thi Tiến sĩ, chọn được nhiều người để chung lo khôi phục. Hai vầng nhật nguyệt lại sáng, trời đất cảnh sắc đổi thay, sự nghiệp trung hưng càng thêm lớn lao sáng láng. Từ đây nhân tài đông đảo, dùng đến vô cùng.

Kính Tông Huệ hoàng đế kế thừa tiên chí, mở rộng nền văn. Thực nhờ Thành Tổ Triết vương ra công vun trồng, kết thành đạo cả, mở khoa thi kén kẻ sĩ, rộng lối chiêu hiền, cho nên các bậc chân Nho nối nhau xuất hiện, trong triều nhiều hiền nhân quân tử, kính giúp đức nghiệp cho vua, đem lại thái bình. Nhưng từ khi khôi phục tới nay chưa có ngày rảnh rỗi, cho nên việc đề danh khắc đá còn chưa kịp làm.

Kính nghĩ: Ngày nay Thánh thượng càng tỏ lòng sùng Nho trọng đạo, gánh trách nhiệm chế tác cơ đồ, pháp độ hoàn toàn sáng tỏ. Cho nên sai đem bảng đỗ khoa này khắc vào bia đá tốt để biểu dương tiếng thơm đức sáng còn tiềm ẩn của người trước và để khuyến khích cho đời sau.

Vả những người thi đỗ khoa này được khắc tên lên đá là hạng trung hay tà, có phải là người hiền hay không, những việc họ làm phải trái nên hư thế nào, ngàn năm sau công luận vẫn còn đó.

Những kẻ hậu tiến đến lau chùi tấm bia này, xem đọc văn bia, thấy người này quả là người hiền thì gắng theo cho bằng, thấy người kia dở thì tự biết để cảnh tỉnh, thế là tốt lắm.

Thế thì bia đá này dựng lên vừa là để khích lệ kẻ sĩ cho đến trăm ngàn đời sau, vừa là để bồi đắp nền tảng ức muôn năm của nước nhà, đó là việc quan hệ không nhỏ, há phải chỉ để cho đẹp mà thôi đâu!

Thần kính cẩn làm bài ký.

Dực vận Tán trị công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Thượng thư Bộ Lễ kiêm Hàn lâm viện Thị giảng Tham Chưởng Hàn lâm viện sự Bạt Quận công Thượng trụ quốc Dương Trí Trạch vâng sắc nhuận.

Hàn lâm viện Đãi chế Khương Thế Hiền2 vâng sắc soạn.

Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Trung thư giám Điển thư, người ấp La (tức xã La Chàng) huyện Thiên Thi phủ Khoái Châu, Vân Nham tử Trần Xuân vâng viết chữ (chân).

Quang tiến Thận lộc đại phu Kim quang môn Đãi chiếu kiêm Triện thích thái thừa Nguyễn Quang Độ vâng sắc viết chữ triện.

Bia dựng ngày 16 tháng 11 niên hiệu Thịnh Đức thứ 1 (1653) Hoàng Việt.

Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, 2 người:

NGUYỄN ĐĂNG 阮登3 người xã Đại Toán huyện Quế Dương.

NGUYỄN VĂN LỄ 阮文澧4 người xã Phúc Triền huyện Đông Sơn.

Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 8 người:

NGUYỄN CUNG 阮珙5 người xã Hà Liễu huyện Chí Linh.

LÊ DỰC 黎翊6 người xã Châu Xuyết huyện Nông Cống.

NGUYỄN DỤNG TRIÊM 阮用霑7 người xã Hạ Yên Quyết huyện Từ Liêm.

NGUYỄN NGHIÊU THẦN 阮堯臣8 người xã Đan Nhiễm huyện Văn Giang.

NGUYỄN HỮU TÁC 阮有作9 người xã Nghiêm Xá huyện Thượng Phúc.

BÙI VĂN BƯU 裴文彪10 người xã Nghiêm Xá huyện Thượng Phúc.

NGUYỄN CHÍNH 阮政11 người xã Thịnh Liệt huyện Thanh Trì.

NGUYỄN TỰ CƯỜNG 阮自強12 người xã Tương Đặng huyện Thanh Lâm.

Chú thích:

1. Niên hiệu Hoằng Định, lịch của Vụ Bảo tồn ghi 1601-1619, nhưng đúng phải tính từ năm 1600. Như vậy ở đây không có sự sai khác giữa năm can chi và năm dương lịch.

2. Khương Thế Hiền: Xem chú thích 4, Bia số 18.

3. Nguyễn Đăng (1577-?) người xã Đại Toán huyện Quế Dương (nay thuộc xã Chi Lăng huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh). Ông thi Hương, thi Hội, thi Đình đều đỗ đầu. Ông làm quan Tả Thị lang Bộ Hộ, tước Phúc Nham hầu và được cử làm Chánh sứ (năm 1613) sang nhà Minh (Trung Quốc). Khi mất, ông được phong phúc thần.

4. Nguyễn Văn Lễ (1564-?) người xã Phúc Triền huyện Đông Sơn (nay thuộc xã Đông Thanh huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa). Ông là cháu nội của Nguyễn Văn Nghi. Ông làm quan Hàn lâm viện Hiệu lý, tước nam. Có tài liệu ghi ông người xã Ngọc Bôi huyện Đông Sơn và có tài liệu lại ghi ông người xã Ngọc Đôi huyện Đông Ngàn.

5. Nguyễn Cung (1552-1634) người xã Hà Liễu huyện Chí Linh (nay thuộc huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương). Ông làm quan Thừa chính sứ, tước tử và từng được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc). Khi mất, ông được tặng Hữu Thị lang Bộ Công, tước bá.

6. Lê Dực (1572-?) người xã Châu Quyết huyện Nông Cống (nay thuộc xã Hoằng Sơn huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa). Ông làm quan Đề hình Giám sát Ngự sử.

7. Nguyễn Dụng Triêm (1559-?) người xã Hạ Yên Quyết huyện Từ Liêm (nay phường Yên Hòa quận Cầu Giấy Tp. Hà Nội). Ông làm quan Hộ khoa Đô Cấp sự trung. Sau ông bị biếm xuống Kinh lịch, phụng mệnh đi sứ, chưa kịp đi thì mất.

8. Nguyễn Nghiêu Thần (1555-?) người xã Đan Nhiễm huyện Văn Giang (nay thuộc huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên). Ông là cháu của Nguyễn Đức Ký và làm quan Tự khanh.

9. Nguyễn Hữu Tác (1567-?) người xã Nghiêm Xá huyện Thượng Phúc (nay thuộc xã Tân Minh huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Tham chính, tước tử và từng đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc).

10. Bùi Văn Bưu (?-?) người xã Nghiêm Xá huyện Thượng Phúc (nay thuộc xã Tân Minh huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Tham chính và được cử làm Phó sứ sang nhà Minh. Khi mất, ông được tặng Tả Thị lang Bộ Công, tước Liễu Xuyên bá.

11. Nguyễn Chính (1562-?) người xã Thịnh Liệt huyện Thanh Trì (nay thuộc xã Hoàng Liệt huyện Thanh Trì Tp. Hà Nội), trú quán xã Thịnh Quang huyện Quảng Đức (nay thuộc phường Thịnh Quang quận Đống Đa Tp. Hà Nội). Ông làm quan Tả Thị lang Bộ Lại và được cử làm Phó sứ (năm 1613) sang nhà Minh (Trung Quốc).

12. Nguyễn Tự Cường (1576-?) người xã Tương Đặng huyện Thanh Lâm (nay là xã Thượng Đạt huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương). Ông làm quan Binh khoa Đô Cấp sự trung, tước tử.

Bia số 23: Năm Quang Hưng thứ 21 (1598)

VĂN BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA MẬU TUẤT NIÊN HIỆU QUANG HƯNG NĂM THỨ 21 (1598)

Trời mở vận thái, đời sinh thánh nhân. Hoàng triều ta từ Thái Tổ Cao hoàng đế dùng võ công định yên thiên hạ, lấy văn giáo đem lại thái bình, mở mang trường học làm nảy nở nghiệp văn. Thái Tông Văn hoàng đế dùng văn đức giữ phép cũ, chuộng chính học, lập giáo hóa, bắt đầu đặt khoa thi mà văn phong từ đó chấn hưng. Nhân Tông Tuyên hoàng đế nối tiên chí, sùng chuộng Nho phong, ba lần mở khoa thi mà nhân tài đua nhau cùng tiến. Thánh Tông Thuần hoàng đế chỉnh đốn kỷ cương, sửa sang chính trị, nạp hết anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, tìm bậc nhân tài trong chốn khoa trường. Trong khoảng niên hiệu Quang Thuận và Hồng Đức mở khoa thi Tiến sĩ tất cả 12 lần, chọn được nhân tài đến 500 người. Lại đem các khoa thuộc quốc triều từ năm Nhâm Tuất về sau, sai quan hữu ti đề danh vào bia đá đặt tại nhà Thái học, lòng sùng trọng thật đã rất mực tốt đẹp vậy. Hiến Tông Duệ hoàng đế lên ngôi báu dựng đạo trung, làm vua làm thầy, phép lựa chọn sĩ tử vẫn noi theo quy chế cũ.

Từ đó về sau, thánh nối thần truyền, tùy thời mở khoa thi, không chỉ một lần mà được nhân tài đông đảo.

Bỗng chốc Đăng Dung tiếm vị, vận nước nhiều bước gian truân, may sao ơn sâu nghĩa nặng còn thấm lòng dân, ý trời việc người lại về với họ Lê. Trang Tông Dụ hoàng đế, Trung Tông Võ hoàng đế, Anh Tông Tuấn hoàng đế, trong buổi thay ngựa ngơi binh, nhờ có Thế Tổ Minh Khang đại vương kính giúp hoàng gia, thu dùng anh tài, hai lần mở thi Chế khoa. Thế Tông Nghị hoàng đế, trong lúc đổi hổ thay lông, thực nhờ Thành Tổ Triết vương đứng đầu kính giúp, chiêu vời tuyển chọn kẻ sĩ, dương uy thần võ, xướng khởi nghĩa binh, khiến cho hai vầng nhật nguyệt lại sáng soi trên ấp quê nhà Hạ. Mở một khoa thi Chế khoa và bốn khoa Tiến sĩ mà nhân tài bắt đầu xuất hiện. Vừa ra oai trời chiêu dụ thu dùng thuộc hạ nhà Mạc, dựng lại càn khôn giữa chốn trung thiên. Bèn trước hết mở khoa thi năm Ất Mùi, lấy đỗ Tiến sĩ 6 người. Đó là khoa thi thứ nhất của thời Trung hưng.

Đến năm Mậu Tuất niên hiệu Quang Hưng thứ 21 (1598), Bộ Lễ tuân theo phép cũ, vâng mệnh thi Hội các sĩ nhân trong nước, chọn hạng xuất sắc được 5 người, đó là khoa thứ 2 thời Trung hưng.

Ngày hôm sau Điện thí, Hoàng thượng đến hiên điện đích thân hỏi về phép trị nước. Đề điệu là Thái úy Ngạn Quận công Trịnh Đỗ, Tri Cống cử là Ngự sử đài Đô Ngự sử Văn Trinh bá Lê Trạc Tú, Giám thí là Lễ bộ Tả Thị lang Hoà Lễ bá Ngô Tháo, Đại lý tự khanh Trần Phúc Hựu dâng quyển lên đọc. Hoàng thượng đích thân ngự lãm, định thứ tự cao thấp, cho bọn Nguyễn Thứ 3 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Nguyễn Khắc Khoan hai người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Ban cho áo mũ, yến tiệc thảy đều theo lệ cũ, chỉ có quy chế dựng bia đề danh thì chưa kịp cử hành. Đến Kính Tông Huệ hoàng đế thánh học sáng suốt, nắm giữ việc lớn, thực nhờ Thành Tổ Triết Vương mềm dẻo chiêu tập thiên hạ, cất nhắc trọng dụng nhân tài, mở 7 khoa thi, chọn được 47 Tiến sĩ, không chỉ sử dụng cho một thời, mà còn thấy tác dụng đến ngày nay.

Kính nghĩ: Hoàng thượng bệ hạ noi theo nghiệp xưa, chỉnh đốn mọi việc. Thực nhờ [Đại nguyên súy Thống quốc chính Sư phụ Thanh vương] dựng lại quốc gia, rộng tìm hiền sĩ, mưu dựng yên ổn lâu dài, để lại phương sách tốt đẹp cho con cháu, chuyên uỷ cho [Nguyên súy Chưởng quốc chính Tây Định vương]lo yên thiên hạ, tôn trọng tư văn. Sâu nghĩ từ khi nước nhà khôi phục tới nay, các khoa Chế khoa, Tiến sĩ, chọn được rất nhiều nhân tài, nếu không dựng bia đề danh thì sao đủ tô điểm cho cuộc thái bình? Bèn sai quan Bộ Công mài đá đề danh những người thi theo đỗ thứ bậc dựng tại trường Quốc học. Lại sai từ thần soạn bài ký khoa này. Thần giữ chức phải làm, không dám chối từ, kính cẩn dâng lời rằng:

Sao Khuê mọc thì văn vận mở mang, chân chúa sinh thì hiền tài đắc dụng. Đời Ngu Thuấn có nhiều tuấn sĩ đã chép trong Kinh Thư, đời Chu Vương đông đảo kẻ sĩ làm quan Kinh Thi đã nói đến. Đời sau từ Hán, Đường, Tống, những người có tài văn học và kẻ sĩ xuất thân khoa mục đều ghi rõ trong sử sách.

Trải đến Hoàng triều ta, nhân tài đông đảo đã thấy chép đầy đủ ở sách đăng khoa lục và ở các tấm bia tại trường Giám, đủ thấy những bia ấy dựng từ hồi đầu quốc triều đã lâu đời lắm. Nhưng từ khi khôi phục tới nay, lệ cũ làm vẫn còn thiếu sót. Vì thế Thánh thượng lưu ý xem xét kỹ, châm chước lời bàn của đình thần, tuân theo quy chế đời trước, đem khoa này khắc tên dựng bia ở cửa người hiền. Qui mô rạng rỡ đàng hoàng, chế độ rõ ràng đầy đủ, quy chế tốt đẹp lưu lại đời đời và danh thơm còn mãi mãi. Kẻ sĩ được đề danh vào tấm đá này phải lo đền đáp thế nào?

Hãy đem khoa này điểm tên từng người mà xem xét: Cũng có người lấy việc can gián làm trách nhiệm của mình mà phúc nước ơn dân, cũng có người chỉ thích nịnh bợ a dua để giữ tước lộc địa vị. Thảng hoặc gặp lúc đạo suy vi, người thì kiên định giúp vua, cũng có kẻ lại bưng tai bịt mắt. Đối với họ, người trung hay tà, hiền hay dở, nên hư phải trái thế nào còn công luận đó. Sáng suốt xét việc đã qua để dạy bảo cho đời sau. Vậy lớp hậu tiến phải lấy đó làm gương, chọn người tốt mà coi làm thầy, lấy hoàn thành trách nhiệm làm hiền, coi không tham lam là quý. Làm quan phải tuân theo ba điều1, thờ vua phải giữ trung mười khoản, khiến cho nước nhà vững như bàn thạch, thế nước kiên cố tựa thành vàng, như thế mới không hổ thẹn với khoa danh vậy.

Bọn thần kính cẩn làm bài ký.

Dực vận Tán trị công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Thượng thư Bộ Lễ kiêm Hàn lâm viện Thị giảng Tham Chưởng Hàn lâm viện sự Bạt Quận công Thượng trụ quốc Dương Trí Trạch vâng sắc nhuận.

Mậu lâm lang Hàn lâm viện Hiệu thảo Trịnh Cao Đệ2 vâng sắc soạn.

Cẩn sự lang đại phu Trung thư giám Chính tự Điển Lộc nam Nguyễn Quang Đắc vâng sắc viết chữ chân.

Quang tiến Thận lộc đại phu Kim quang môn Đãi chiếu kiêm Triện thích thái thừa Quế Lan nam Nguyễn Quang Độ vâng sắc viết chữ triện.

Bia dựng ngày 16 tháng 11 Thịnh Đức năm thứ 1 (1653) Hoàng Việt.

Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, 3 người:

NGUYỄN THỨ 阮庶3 người xã Bột Thái huyện Hoằng Hóa.

NGUYỄN DUY THÌ 阮惟時4 người xã Yên Lãng huyện Yên Lãng.

LÊ BẬT TỨ 黎弼四5 người xã Cổ Định huyện Nông Cống.

Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 2 người:

NGUYỄN KHẮC KHOAN 阮克寬6 người xã Yên Khang huyện Yên Phong.

NGUYỄN GIỚI 阮价7 người xã Văn Lâm huyện Nga Sơn.

Chú thích:

1. Ba điều: Thanh liêm, siêng năng và cẩn thận.

2. Trịnh Cao Đệ (1630-1706) người xã Vãn Hà huyện Thụy Nguyên (nay thuộc xã Thiệu Hưng huyện Thiệu Hóa tỉnh Thanh Hóa). Ông làm quan Tự khanh, tước tử. Ông là tác giả 4 bài văn bia Tiến sĩ, khoa 1598, khoa 1628, khoa 1631 và 1637.

3. Nguyễn Thứ (1572-?) người xã Bột Thái huyện Hoằng Hóa (nay thuộc xã Hoằng Vinh huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa). Ông là con của Nguyễn Sư Lộ và làm quan Lại khoa Cấp sự trung.

4. Nguyễn Duy Thì (1572-1652) người xã Yên Lãng huyện Yên Lãng (nay thuộc Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc). Ông là cha của Nguyễn Duy Hiểu. Ông giữ các chức quan, như Tá lý công thần, Tham tụng, Thượng thư Bộ Hộ kiêm Chưởng Lục bộ sự, Thái phó, tước Tuyền Quận công. Sau khi mất, ông được tặng chức Thái tể.

5. Nguyễn Bật Tứ (1563-1627) người xã Cổ Định huyện Nông Cống (nay thuộc xã Tân Minh huyện Triệu Sơn tỉnh Thanh Hóa). Ông làm quan Thượng thư Bộ Binh, Thiếu bảo, tước Diễn Gia hầu và từng được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc). Sau khi mất, ông được tặng Thái bảo, tước Diễn Quận công.

6. Nguyễn Khắc Khoan (1563-?) người xã An Khang huyện Yên Phong (nay thuộc xã Vạn An huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh). Ông làm quan Tả Thị lang Bộ Lại, tước Lễ Xuyên hầu và từng được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc). Sau bị giáng làm Thừa chính sứ.

7. Nguyễn Giới (?-?) người xã Văn Lâm huyện Nga Sơn (nay thuộc huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa). Ông làm quan Hiến sát sứ. Có tài liệu ghi ông là Nguyễn Kiệm.